VH 1930 - 1945, Thơ lục bát Quách Tấn


A. MỞ ĐẦU:
Nhìn lại văn học Việt Nam trong dòng chảy giai đoạn năm 1930 – 1945, chúng ta đã chứng kiến bầu không khí rộn ràng, nhộn nhịp của một cuộc “thay da đổi thịt” trên mọi khía cạnh của đời sống văn học. Từ tư duy nghệ thuật đến hình thức thể loại, mọi phương diện đều có những bước tiến rất dài trên con đường phát triển. Và với thi nhân văn sĩ, những người trực tiếp dấn thân vào dòng chảy cuồn cuộn ấy, khung trời mới đã mở ra và mang đến cho thế hệ những người cầm bút trẻ biết bao đòi hỏi cách tân rất lạ, đầy hấp lực và thử thách. Thời vận đến và dòng tinh anh của một thế hệ đã hội tu tại cái mới, cái hấp lực và thử thách ấy. Người ta đã chứng kiến những ngòi bút trẻ tung hoành trong những phong trào văn chương nghệ thuật đổi mới như Tự lực văn đoàn hay Thơ Mới. Sức trẻ với nhựa sống căng tràn viết theo lối mới đã đành, cả những cội già cũng đà rục rịch. Từ cụ Tản Đà đến Phan Khôi, những bậc cao niên từng quen với tay cầm “trẻ đầu bạc, già đầu đen” nay cũng nghẹn ngào mà thốt lên rằng “Bây giờ anh đổi lông ra sắt”. Thế nhưng trong ánh sáng lấp lánh của sự đổi mới đó, người đọc vẫn thoáng giật mình vì một khối tình thơ chợt như đứng lại, chợt như ngược dòng mà tìm về một thời xa vắng:

Giấc mộng nghìn xưa đang mải mê
Vùng nghe cảm hứng báo thơ về.
Thơ về tự bởi giấc mộng xưa, nào phải vì đâu hiện thực đương mời gọi. Đó là hồn thơ của thi nhân Quách Tấn, một “kẻ biệt khách”, “du tử” lạ lùng trong khung trời thơ ca Việt Nam giai đoạn này. Hơn 80 năm ròng nhìn lại, chúng ta vẫn cảm hoài phong vị đầm thắm, bùi ngùi của thơ ca Quách Tấn giữa sự ngọt ngào phấn khích của cả một giai đoạn. Thơ Quách Tấn nói chung và mảng thơ lục bát nói riêng của ông là một sự tìm tòi thú vị trong sự suy nghiệm về nỗi niềm “ba sinh” của cuộc đời. Nỗi niềm hoài cổ ấy của thi nhân không chỉ ngày xưa, giữa cái thế tương phản cựu tân mới lạ, mà giữa hiện thực hôm nay vẫn tuyệt mỹ vô cùng.

B. NỘI DUNG:
1. Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà thơ Quách Tấn:
1.1 Cuộc đời:
Quách Tấn sinh ngày 04 - 011910 tại Bình Khê, tỉnh Bình Định và mất ngày   21 - 12 - 1992 tại Nha Trang, hiệu là Trường Xuân, tự là Đăng Đạo. Ông vốn xuất thân trong một gia đình gốc Nho học với thân mẫu là bà Trần Thị Hào rất giỏi chữ Hán nhưng thân phụ, ông Quách Phương Xuân, lại là người thông chữ Pháp. Anh em ông gồm 10 người nhưng chỉ còn lại ba là ông, Quách Tạo và Quách Thị Mộng Lan.
Lúc nhỏ Quách Tấn học chữ Hán. Đến năm 12 tuổi, ông mới bắt đầu học chữ Quốc ngữ và Pháp ngữ tại trường Pháp Việt Quy Nhơn (nay là Quốc học Quy Nhơn).
Trong cuộc đời của mình, nhà thơ đã có quá trình làm việc tại nhiều nơi như nhận công tác tại Tòa khâm sứ Huế năm 1930, tại toà sứ Nha Trang năm 1935 và nhiều nơi khác.
Đến năm 1955, ông về nhiệm sở tại tòa hành chánh Quy Nhơn cho đến 1957. Năm 1965, ông nghỉ hưu và về sống tại nhà số 12 đường Bến Chợ Nha Trang (gần chợ Đầm), tiếp tục viết văn làm thơ.
Năm 1987, nhà thơ lâm cảnh mù lòa rồi mất ngày 21 tháng 12 năm 1992 tại Nha Trang, hưởng thọ 82 tuổi.
1.2. Sự nghiệp văn chương:
Quách Tấn là con người đa tài, thành công ở nhiều thể loại khác nhau. Ông đã tập làm thơ từ khi còn học ở trường Quốc học Quy Nhơn khoảng năm 1925 - 1926. Lúc ra trường, ông đã thông thạo các thể thơ nhưng vẫn chính thức bước vào vườn thơ. Đến năm 1932, nhờ sự dìu dắt của nhà thơ Tản Đà và sự nâng đỡ của cụ Phan Bội Châu, tên tuổi của ông mới được công chúng ái mộ văn chương biết đến. Thơ ông phần nhiều đăng trên các báo An Nam Tạp Chí, Phụ Nữ Tân VănTiếng Dân.
 Quách Tấn đã để lại cho đời những áng thơ văn cao nhã, tiêu biểu có thể kể đến như tập Một tấm lòng (năm 1939), tập Mùa cổ điển (năm 1941), tập Đọng bóng chiều (năm 1961), tập Mộng Ngân Sơn (năm 1966), tập Giọt trăng (năm 1973), tập Trăng hoàng hôn (năm 1999). Sau khi ông qua đời 14 tức vào năm 2006, Quách Giao, con trai nhà thơ, đã cho xuất bản Tuyển tập thơ Quách Tấn. Ngoài ra, ông còn 13 tập thơ chưa xuất bản.
Bên cạnh mạch nguồn thơ như bất tận, Quách Tấn còn có đóng góp trong công tác dịch thuật thơ văn với các thành tựu như Tố Như thi trích dịch (năm 1973), Lữ Đường thi trích dịch, Việt Nam Hán văn thi tuyển trích dịch, Tập văn biền ngẫu (trên 15 bài văn tế, văn bia); viết văn xuôi: Trăng ma lầu Việt (năm 1942), phỏng theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ) và Duyên Tiên (phỏng theoTruyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm), Nghìn lẻ một đêm 4 tập (từ năm 1958-1960, phỏng theo tác phẩm Mille et une nuit của Galland và Mille nuits et nuit của Mardrus). Ngoài ra, ông còn tham gia biên khảo địa phương chí với những công trình nổi tiếng như: Nước non Bình Định (năm 1968), Xứ Trầm hương (năm 1969), v.v..    
Nhà thơ cũng có những công trình viết chung với con trai Quách Giao như các tập: Nhà Tây Sơn (năm 1988), nhân Bình Định (năm 2001), Đào Tấn và Hát bội Bình Định (năm 2007).
2. Nỗi niềm và sự hoài cổ trong thơ Quách Tấn:
Quách Tấn bước vào làng thơ khi Thơ mới đang dần chiếm lĩnh những đỉnh cao trong văn chương. Lạc lõng trong không khí mơ mộng của tình yêu, của những nỗi buồn không tên và có tên cùng khát khao thể hiện cái tôi cá nhân đến cháy bỏng, Quách Tấn vẫn trung thành với một giọng thơ “cũ”. Đối với Quách Tấn, thơ không chỉ bộc lộ tiếng lòng mà còn thể hiện rõ nét những nét tính cách trong con người ông. Được biết đến là một thành viên của nhóm “Bàn thành tứ hữu”, cùng với “rồng” của Hàn Mạc Tử, “lân” của Yến Lan, “phụng” của Chế Lan Viên, Quách Tấn được suy tôn là “rùa”, loài mang đầy những “dấu vết thời gian”, lặng lẽ chiêm nghiệm chuyện đời, chuyện người. Có lẽ vì vậy mà thơ lục bát Quách Tấn luôn chất chứa một nỗi niềm hoài cổ, một chút nhớ thương về những cảnh vật xưa, người xưa, tâm tình xưa...
 2.1. Hoài  cổ:
Quê hương là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi đùm bọc, nơi tiếp xúc ngôn ngữ đầu tiên - ngôn ngữ của Mẹ: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời hoặc Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi. Quê hương là nơi nuôi dưỡng tuổi ấu thơ: Là chùm khế ngọt, Có hoa có bướm; là nơi mà mỗi người trải nghiệm với tất cả mặn nồng và cay đắng của nó: là con đường đi học hay Có những ngày trốn học bị đòn roi; là nơi xinh tươi, đáng yêu cho cả bạn bè khắp năm châu bốn biển: Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi. Và quê hương cũng là: Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi. Hai tiếng quê hương” thân thương luôn là bến neo đậu cảm xúc của người thi sĩ, là điểm xuất phát con người ta hay tìm về những lúc hoài niệm hay tìm lại chính mình. Với Quách Tấn, quê nhà gắn liền với những hình ảnh thân quen, mộc mạc của làng quê Việt Nam. Đó là “bếp lửa”, là “nụ hoa”, là “con đường vắng ngựa xe”, là những mối tình tựa như giấc chiêm bao vừa choàng tỉnh nhưng dư âm của nó vẫn vang vọng khiến người đọc liên tưởng đến quê hương Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX về trước.
Bụi đường đã vắng ngựa xe
Bức mành rũ thấp còn e gió lồng
Ngồi nhen bếp lửa sưởi lòng
Hoa thơm mấy nụ nở hồng trong sương.
Hừng đông nối bóng trăng tà
Tiếng chim mát mẻ màu hoa ngọt ngào
Duyên trần đã tỉnh chiêm bao
Còn nghe bước sóng ra vào bến xưa.”
                                                                        (Nở hồng)     
Đó là “cây đa”, “bến nước”, “con đò”, những hình ảnh rất điển hình của làng quê Việt:
Gái thời bến nước mười hai
Mười hai bến chợ làm trai là mình
Dòng đời dù lắm chênh vênh
Con đò xưa vẫn nặng tình cây đa”.
                                                                        (Nặng tình)
Nhưng gói gọn trong những hình ảnh quê nhà là nỗi niềm của Quách Tấn trăn trở về sự tồn tại của chính mình, bất lực trước cuộc sống hiện. Đã quá quen với hình ảnh “mười hai bến nước”, thân người con gái “trong lành, đục chịu”, Quách Tấn cũng tự giễu mình khi đem ví thân trai như “mười hai bến chợ”, cũng bị dòng đời xô đẩy, cũng phải phó mặc cuộc sống của mình vào tay kẻ khác. Nhưng dù vậy, nhà thơ vẫn rất nặng tình với làng quê, như con đò xưa vẫn nhớ mãi về miền đất ngọt, nơi cây đa bao đời phủ bóng mát trên dải đất quê hương. Điều này khá giống với những nhà thơ lãng mạn đương thời như Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng với hình ảnh con cọp vang bóng một thời giờ phải nằm trong cũi sắt, hay Huy Cận đi vào nỗi buồn mênh mang qua bài Tràng Giang.
Trong bài thơ Hoa quỳ, tác giả viết: 
Ðổi thay cũng bởi tại trời
Thân mình mình giữ trách người ích chi
Nâng lòng đón ánh tà huy
Vườn quê nghĩ khóm hoa quỳ mà thương”
“Thân mình mình giữ” có lẽ là lời tự bạch thành thật của chính ông về bản thân mình. Bất lực trước sự xoay vần của thời thế là có thật, nhưng vẫn không thể ngăn nhà thơ vẽ nên những ước vọng, để rồi lại thất vọng. Hai câu thơ cuối của bài Bến xa, tác giả viết:
Nước non dệt mộng không thành
Bến xa huyền hạc bay nhanh trở về”
Ở đây tác giả đề cập đến trách nhiệm công dân, trách nhiệm của người thanh niên đối với đất nước  người dân sống trong cảnh bị thực dân, phong kiến đàn áp, thống trị, nhưng rồi khi bất lực thì lại quay về với “bến xa huyền hạc”, Quách Tấn không dấn thân vào con đường cách mạng giành độc lập cho dân tộc, ông lại quay về với cõi hư không, lấy triết lỹ lão giáo để hành xử. Cũng chính điều này cho thấy nỗi lòng u uẩn của tác giả trong thi ca.
 Rồi cũng từ đó tác giả lấy người thân, bạn bè, lấy ánh trăng làm bầu bạn:
Non trăng đã lặng dấu hài,
Trải niềm tâm sự sân lài trắng sương.
                                                                        (Ngậm ngùi)
2.2. Nỗi niềm riêng:
Quách Tấn không làm công việc những người Sơn đông mãi võ trên sân khấu chính trị và chợ chữ nghĩa. Quách Tấn chỉ nhắc nhở cho những người chịu bình tâm nghe ông những điều đơn giản nhưng là điều cốt lõi. Hiểu được ông tức là nắm được chìa khóa để mở một số ưu tư. Những điều Quách Tấn gửi gắm vào thơ không có gì mới lạ. Đó chỉ là những điều chúng ta đã biết nhưng đã quên. Quên rằng hoa vẫn nở âm thầm trên những nấm mồ xanh cỏ. Quên tiếng chim sẻ gọi bình minh dưới vòm lá mận. Quên con bướm vàng loay hoay tìm chỗ đậu trên ngọn mướp đong đưa. Quên thân ái nhìn thẳng vào mắt nhau. Và quan trọng hơn hết, là quên nhìn thẳng vào mắt mình, hay nói như ngôn ngữ nhà Phật, bản lai chân diện mục. Có lẽ đó là điều khẩn thiết hơn hết, vấn đề mãi còn theo ý thơ Quách Tấn.
Bất mãn với xã hội thực dân nửa phóng kiến, nhưng không như những nhà thơ lãng mạn đương thời “trốn” trong tình yêu, sây ngất ngây trong men rượu, hoặc đi vào cõi hư không Ta là một là riêng là thứ nhất/ Không có ai bè bạn nỗi cùng ta”, Quách Tấn đã chọn lối đi khác là trở về với tình bạn trong quá khứ. Ông bộc bạch :
Thuyền ai phiếm lạnh trăng thâu.
Đìu hiu lau lách nhạt màu áo xanh
Nước non dệt mộng không thành”
                                                                         (Bến xa)
Những vần thơ trên lý giải nguyên nhân để Quách Tấn trở về với quá khứ. Bởi thi sĩ quá bất mãn và bất lực trước xã hội đương thời. Ông trở về với thơ ca, lấy thơ ca làm bầu bạn, làm phương tiện để giải bày. 
Trong một bài nhận định về thơ của Quách Tấn cách đây đã hơn ba chục năm, Phạm Công Thiện đã viết một câu hay tuyệt: Tôi tưởng chừng những tiếng thơ trên đã phát xuất từ trung tâm điểm của vũ trụ, xa lắm, xa lắm[1]. Những tiếng xa lắm, xa lắm của Phạm Công Thiện dĩ nhiên phải dược hiểu theo nghĩa bóng.
Có những bài thơ của Quách Tấn mà mỗi lần đọc lên, người đọc khó có thể nghĩ rằng ông đã làm những bài thơ đó tại những thành phố có tên là Quy Nhơn hay Nha Trang hay tại bất cứ một thành phố nào ở Việt Nam mà cảm giác ông là một ẩn sĩ đang sống tại một ngôi chùa cổ ở một thảo nguyên hay một hòn núi cao nào đó, xa hẳn chốn trần gian bụi bặm này. Vì chỉ trong cô đơn heo hút như vậy, thì ông mới lắng nghe hết cả cái buồn sầu thảm của vũ trụ mênh mông này:
Sen hồ từng trận hương đưa
Chen tầng mây khói lửng lơ cánh diều
Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa khua rụng nắng chiều đầy non.”
                                                                        (Rụng nắng chiều)
Rồi một hôm nhà ẩn sĩ đó đã bị bắt buộc xuống núi trở lại. Dù sống giữa cuộc đời, nhưng lòng ông lúc nào cũng ngóng vọng về nơi chốn xa xôi ấy:
Nhớ chùa lòng muốn lên thăm
Sườn non đã dốc đá dăm lại nhiều
Lắng tai nghe tiếng chuông chiều
Mặt hồ lặng sóng mây điều bay qua.”
                                                                        (Nhớ chùa)
Ông nhớ rõ từng lời kệ tiếng kinh, nhớ giọt trăng tà đọng lại trên hành lang heo hút của đêm sắp tàn nơi ngôi chùa cổ:
 “Từng hàng mây kéo ra khơi
Sương khuya ướt cánh chim trời về đâu
Bùi ngùi ra đứng sân sau
Nhìn trăng đọng giọt trên tàu chuối non.
                                                                        (Đọng giọt)
Và nhớ những chiều núi non sau cơn mưa còn đẹp hơn cả một giấc mộng:
Chùa xa vừa tạnh giọt đồng
Tường vi nén lệ nở hồng bình minh
Hương lồng đáy giếng lung linh
Trà mai một hớp ngọt tình cố viên.”
                                                                        (Vừa tạnh)
Gần một thế kỷ đi qua trên cuộc đời này, ngoảnh nhìn lại chẳng còn nhớ gì hết, ngoài một chút núi non tịch mịch trong lòng của thi nhân mà thôi…
Chắc chắn những bài thơ trên của Quách Tấn không phải là sự rung động ngẫu nhiên hay nhất thời của một nghệ sĩ, mà nó đã được hun đúc sâu xa bởi một khát vọng. Khát vọng đó đã một lần được Quách Tấn phát biểu: ““Làm thơ là để gởi tấm lòng vào thiên cổ chứ không phải để phấn sức tài ba trong nhất thời. Đó là lời của Trần Tử Ngang mà tôi đã học thuộc lòng từ khi mới tập làm thơ. Ngày xưa tôi làm thơ là để lòng vào thiên cổ, như lời Trần Tử Ngang. Nhưng từ ngày tôi nhận thấy văn chương là một pháp môn, là một cái đạo, thì tôi làm thơ, viết văn để giải thoát tâm hồn[2]
Thi ca, theo quan điểm của Quách Tấn làm một pháp môn, một cái đạo để ông giải thoát tâm hồn:
Mái đầu dầu đã hết xanh
Trước sau đời vẫn một tình với thơ
Hiu hiu mạch sống tràn bờ
Mùa hoa nở trọn những giờ say xuân.
                                                                        (Một tình với thơ)
Vào những tháng cuối năm 1975 và tiếp đến những năm 1976 và 1977, đó là những năm tháng buồn bã nhất trong cuộc đời của nhà thơ Quách Tấn. Bạn bè cũ, một số đã ra đi, một số còn ở lại thì sợ tai vách mạch rừng nên ít ai dám lui tới để trò chuyện, tâm sự, mặc dù có quá nhiều chuyện để mà tâm sự với nhau. Trong hoàn cảnh  cô đơn và đầy bất an như lúc ấy, Quách Tấn lại gửi gắm nỗi lòng vào những câu chữ:
Bạn thơ nay chẳng còn ai
Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư
Chung trà hớp ngụm vô tư
Chia tay nhìn bóng thanh hư gởi lòng.
                                                                        (Vô tư)
Đối với bạn bè, dẫu số phận của từng người có khác, nhưng trong lòng tác giả vẫn nhớ về bạn bè ngày xưa .
Tuổi già thêm nặng tình thơ
Nhớ thương người khuất đợi chờ người xa
Lắm đêm tỉnh giấc canh gà
Ðem chồng thơ cũ mở ra ngồi nhìn.”
                                                                        (Tuổi già)
Rồi cũng từ nỗi nhớ ngày xưa ấy, tác giả quay về hiện tại “người mất”, “người xa” mà hiểu hơn về cuộc sống và tiếc nhớ những ngày xưa thân ái. Ông đã rơi vào nỗi cô đơn của hiện tại vì không còn tìm đâu ra nữa tình bạn ngày xưa. Cũng chính vì điều này nên ông “nghẹn ngào”:
Bạn xưa người mất người xa
Người gần ngó lại ai là bạn thân.
Song thơ phủi lớp phong trần.
Ngâm câu “ xuân thọ, mộ vân nghẹn ngào”.”
                                                                         (Nghẹn ngào)
 Những người bạn trong thơ của Quách Tấn không chỉ là những người của một thời tuổi trẻ mà còn là những người bạn thơ, những người đồng điệu của tâm hồn. Ông hay đề cập đến họ và cả những lúc họ đã chia xa về với cõi vĩnh hằng hay đến một nơi khuất xa nào đó.
“Bạn thơ gát bút cả rồi
Song thơ một bóng mình ngồi ngắm trăng”
                                                                        (Ngày tàn)
 Hay :
Bạn thơ rày chẳng còn ai
Tới lui trò chuyện chỉ vài nhà sư”
                                                                        (Vô tư)
  Hoặc:
Bạn thân lớp trước chẳng còn
Đồng trang quá nửa mõi mòn lá thu”
                                                                         (Non sâu gửi về)
Đó là nỗi niềm trắc ẩn của Quách Tấn và tạo nên một phong cách riêng không lẫn lộn với những thi sĩ lãng mạn đương thời. 
Rồi cũng từ suy nghĩ đó, Quách Tấn mơ mình thoát tục, Quách Tấn đến với Phật giáo, với chùa chiền:  
Nhớ chùa lòng muốn lên thăm
Sườn non đã dốc đá dăm lại nhiều
Lắng tai nghe tiếng chuông chiều
Mặt hồ lặng sóng mây điều bay qua”
                                                                        (Nhớ chùa)
 Hoặc:
Vị đời mong bớt chua cay
Đêm đêm ngồi lắng chuông chùa điểm sương”
                                                                        (Mong bớt chua cay)
Cũng từ việc muốn đến với cửa Phật, Quách Tấn có lúc mơ thoát tục. Ở đây ông bị ảnh hưởng triết lý đạo giáo:
“Phấn dồi đôi cánh lãng du”
Nửa tin rằng bướm rằng Chu rằng mình”
                                                                        (Nửa tin)
Tiếng chuông chùa đối với thi sĩ Quách Tấn như một kỹ vật thiêng liêng từng chôn sâu trong tiềm thức của ông, nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền thì nó bỗng dưng trỗi dậy. Không những lắm lúc ngắm cảnh thiên nhiên tiếng chuông chùa làm ông chú ý, mà mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng hiện đến. Chính vì nghe tiếng chuông ngân mà khách hành hương trút hết mọi nỗi ưu phiền, như thi sĩ Chu Mạnh Trinh đã tả:
“Lạ cho vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không.”
Không khác gì cảm nhận của họ Chu, Quách tấn cũng mô tả trạng thái tâm hồn mình khi đến viếng một cảnh chùa quen thuộc:
Người đến viếng cảnh chùa,
lòng không rửa mà trong,
thân không cánh mà nhẹ,
ngồi tựa bóng cây đón mát,
tưởng chừng mình đã xa lánh hẳn cõi trần tục.”
                                                                        (Nước non Bình Định)
Thế rồi, thoảng đâu đây như có tiếng gió ru hồn lữ khách:
“Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.”
Và thi sĩ tiếp: “Nếu không có tiếng chuông hay mộng thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững trong hồ sen yên tịnh.”
Thoát ly hay nói đúng hơn bất lực với thực tế đấu tranh, Quách Tấn không tìm trong tháp ngà của tình yêu mà quay về quá khứ, gần gũi với triết lý nhà Phật hay Lão giáo là điều dể dàng nhận thấy. Đó cũng là niềm u uẩn của các thi sĩ lãng mạn đương thời.
Mang tâm hồn của kẻ sĩ, nếu có hờn có trách thì ông cũng chỉ hờn trách chính mình thôi, còn đối với con người, đối với cuộc đời thì vẫn yêu thương nồng nàn.Quách Tấn hiện đang đi chơi xa và không bao giờ trở về nữa. Tôi cứ tưởng tượng ông đứng nhìn một cây mai nở rộ trên một hòn núi cao nào đó, điều mà khi còn sống ông rất khát khao nhưng không bao giờ thực hiện được. Những lúc đọc lại áng thơ của Quách Tấn, tôi cứ bâng khuâng tự hỏi: Tại sao có những người muốn đem hết cả tấm lòng của mình để hiến dâng cho cuộc đời mà họ vẫn bị cuộc đời đối xử một cách bất công? Vì tài hoa của họ chăng? Chữ tài đi liền với chữ tai một vần, như xưa nay ai cũng nghĩ như vậy. Theo tôi, quan niệm đó chỉ đúng một phần thôi, vì có biết bao nhiêu người tài hoa ở những nơi khác trên đời này, họ vẫn có hoàn cảnh, có điều kiện để đem tài hoa của họ ra mà hiến dâng cho cuộc đời?
Có một bài thơ của Quách Tấn, mà tôi nghĩ có thể tạm giải thích được. Ít nhất là trong trường hợp Quách Tấn. Bài thơ ấy như thế này:
Bao phen bến hẹn đổi dời
Làng phong tao vẫn con người thủy chung
Gió lau thổi lạnh sóng tùng
Hương xưa thắm lại cụm hồng ngày xưa.
Phải chăng vì muốn thủy chung với cụm hồng ngày xưa ấy, mà Quách Tấn phải chấp nhận số phận lao đao của mình?
3. Nghệ thuật thơ lục bát Quách Tấn trong cảm thức hoài cổ:
3.1. Thể thơ:
Trong các tập thơ của Quách Tấn thì có bốn tập được sáng tác theo thể lục bát: Trăng hoàng hôn (1975 - 1977), Nhánh lục (1940 - 1972), Nửa rừng trăng lạnh (1975 - 1076), Giàn hoa lý (1978 – 1979). Trong đó, tập Trăng hoàng hôn có 38 bài, đều là lục bát tứ tuyệt; Nhánh lục có 23 bài, trong đó có 3 bài thất luật, số còn lại từ 4 – 14 câu; Nửa rừng trăng lạnh có 23 bài, trong đó có 3 bài thất luật, còn lại từ 6 – 10 câu, ; Giàn hoa lý có 27 bài từ 4 – 6 câu.
Việc chọn thể thơ truyền thống dân tộc, gắn bó chặt chẽ với ca dao là một ưu thế để tác giả thể hiện tâm trạng và suy ngẫm của mình hơn là các thể Đường luật với niêm luật, đăng đối chặt chẽ. Tác giả tuân thủ rất đúng luật thơ, về cách ngắt nhịp, bằng trắc đều rất chuẩn. Về vần, vần lưng và vần chân trong thơ lục bát tạo câu thơ uyển chuyển, linh hoạt, dễ dàng thể hiện cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc nhớ nhung, hoài niệm. Tuy nhiên, trong bốn tập thơ lục bát của mình ông có 5 bài biến thể, gồm Cúc nảy hương, Gác trọ đêm thu, Tài tình nhất phiến, Nỡ nào, Vườn xưa, Hai đêm mười sáu. Riêng bài Cúc nảy hương được làm theo thể song thất lục bát – một thể thơ cổ điển của văn chương xuất hiện từ thế kỷ XVI, đạt đỉnh cao ở thế kỷ XVIII. Đối với một thể thơ khó, trong giai đoạn hiện đại không còn được sử dụng nhiều nữa nhưng Quách Tấn vẫn sáng tác rất đúng luật, cùng với những từ ngữ mang dáng dấp cổ điển thổi vào cho bài thơ một cái hồn trung đại:
                  Cúc nảy hương (B/T) trời sương (B) ngào ngạt (T/V1)
                  Chén quan hoài (B) đậm nhạt (T/V1)ai (B/V2)
                  Vì ai (B) tỉnh giấc (T) thềm mai (B/V2)
                  Bên gương (B) phấn điểm (T) trâm cài (B/V2) thêm duyên (B/V3).
                  Trăm năm đã (T) non nguyền (B/V3) nước hẹn (T/V4)
                                                               (Cúc nảy hương – tập Nhánh lục)
Hoặc có bài thất luật, chẻ đôi câu bát, tạo sự phá cách, thể hiện sự linh hoạt trong sáng tác thơ lục bát:
                                          Đêm đông mưa gió phũ phàng
                                          Nhà xưa mái dột
                                          Bẽ bàng sách xưa
                                          Bao phen khói lửa còn chừa
                                          Đèn khuya chung thú
                                          Song trưa chung tình…
                                                               (Nỡ nào – tập Nửa rừng trăng lạnh)
  3.2. Ngôn từ:
Trước hết, cần nói đến hệ thống hình tượng nghệ thuật xuất hiện trong các tập thơ lục bát của ông. Xác lập được tần suất và các góc nhìn vào mỗi hình tượng sẽ góp phần làm nổi bật lên tính hoài cổ trong thơ Quách Tấn nói chung và các tập thơ lục bát nói riêng. Nói như Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường“thơ thể hiện con người vũ trụ”, thì ở đây ta thấy thơ của Quách Tấn không nằm ngoài mạch chảy ấy. Nếu tiếng thơ thường hướng tới sự giao thoa, tương thông giữa con người với thiên nhiên, nhà thơ thường đặt cái “tâm” giữa thiên nhiên, vạn vật, tạo nên cảm giác hòa điệu giữa đời sống tâm linh với ngoại cảnh, thì những từ “trăng, gió, hoa, thu, sương …” sẽ được xuất hiện với tần số rất cao. Ta đã biết, Thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca nhân loại và hình ảnh “trăng”  từ rất lâu đã trở thành một hình tượng mẫu mực trong thơ ca từ cổ điển cho đến hiện đại. Hình tượng “trăng” không chỉ xuất hiện dày đặc trong thơ Hàn Mặc Tử mà còn là một hình tượng quen thuộc trong thơ lục bát Quách Tấn, tiêu biểu là tập Trăng hoàng hôn.
Trăng”  trong Trăng hoàng hôn xuất hiện với tần suất cao với nhiều hình dáng và thời điểm khác nhau: “vầng trăng cổ độ”, “trăng tà”, “sân trăng”, “trăng thâu”, “trăng đọng giọt”, “non trăng”, …:
Bùi ngùi ra đứng sân sau
Nhìn trăng đọng giọt trên tàu chuối non
                                                                        (Đọng giọt – tập Trăng hoàng hôn)
Ngoài ra, các hình ảnh thiên nhiên khác như “gió, sương, hoa,…” cũng tạo cho thơ Quách Tấn một không gian khoáng đạt, tràn ngập hương thơm, gió mát. Ví dụ, gió c“gió lồng”, “gió cũng đa tình”, “gió thu”, “gió tây”, “ngọn gió lành”, “trải ngàn gió lau”,…; sương có “sương khuya”, “trắng sương”, “sương bay”, “khói sương”,…; hoa có “giàn hoa thiên lý”, “hoa xuân”, “hoa bưởi”, “sân lài”, … :
Sân lài ngào ngạt hương đêm
Một mình thơ thẩn bên thềm đợi trăng
                                                   (Lớp lớp mây giăng – tập Trăng hoàng hôn)
Trong văn chương cổ điển Việt Nam, hoa cúc là một trong các loài cây quân tử, xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Trãi, nay trở lại trong trang thơ Quách Tấn:
Canh chầy lòng biết gởi ai
Sân trăng nhìn cúc tháng hai ngậm ngùi
Lạnh lung tiếng vạc mây trôi
Giếng xưa hắt ánh sao rơi vào thềm
                                                   (Cúc tháng hai – tập Trăng hoàng hôn)
Cúc được trồng vào tháng chín hoặc tháng mười và sẽ nở vào tháng một tháng hai dịp tết năm sau. Tác giả sử dụng hình ảnh cúc để nói lên nỗi nhớ quê nhà của một người con phải xa xứ nhưng lòng vẫn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn.
Thứ hai, bên cạnh những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca đã nhắc đến ở trên, thơ Quách Tấn còn xuất hiện nhiều hình ảnh quen thuộc mà ta từng bắt gặp trong ca dao, dân ca như “thuyền”, “bến nước”, “bến đò”, “bến chợ”, “cánh cò”, “cây đa”,... Lục bát là thể chủ đạo của ca dao nên khi tác giả sử dụng thể thơ ấy một cách linh hoạt, uyển chuyển thì những thi liệu của văn học dân gian cũng tuôn vào một cách tự nhiên, sinh động và bình dị:
Thơ người bến nước mười hai
Thơ mình bến chợ nối dài tình sông…
                                                               (Mười hai bến chợ - tập Giàn hoa lý)
“[] Sông sâu gặp buổi không đò
Bâng khuâng ngắm vọi cánh cò lưng mây
                                                               (Cánh cò – tập Trăng hoàng hôn)
Quách Tấn quan niệm “văn chương là phương tiện lọc tâm hồn, một con đường giải thoát phiền não”, vì vậy nên ông rất thận trọng trong việc làm văn, làm thơ. Nhưng thận trọng không phải là lo mài giũa từng câu từng chữ, ông thường ví việc làm thơ như việc sanh con, việc hàm dưỡng súc tích là cốt yếu. Còn chọn chữ chuốt lời không phải để làm vui tai mắt thiên hạ hầu mau lấy tiếng khen mà chính là để nói những gì mình muốn nói. Lời thơ cũng như tiếng lòng chính vì vậy từ ngữ mà tác giả sử dụng đều chất chứa bao tình cảm.
Thứ ba, thơ lục bát của Quách Tấn là một thế giới tràn ngập những từ láy chỉ cảm xúc hoài niệm, buồn man mác của con người và trạng thái của sự vật cũng nằm trong mạch xúc cảm ấy. Chúng tôi thống kê từ trong Tuyển tập thơ Quách Tấn, tập Trăng hoàng hôn có 37 bài với hơn 15 lần sử dụng các từ láy và tập Nhánh lục có 23 bài với hơn 12 lần sử dụng từ láy. Các từ láy chúng tôi thống kê được như: “lưa thưa”, “sụt sùi”, “bùi ngùi”, “thơ thẩn”,thổn thức”, “lênh đênh”, “thiu thiu”, “hiu hắt”, “bơ vơ”, “bồi hồi”, “não nùng”, “chập chờn”, “nao nao”, “trằn trọc”, “lạnh lùng”, “bảng lảng”, … Các từ láy trên đã đóng góp hết sức tích cực trong việc thể hiện thành công tâm trạng của nhân vật trữ tình, thể hiện nỗi niềm ở các cung bậc tình cảm khác nhau:
Một mình gác trọ chon von
Đêm nằm thương vợ nhớ con não nùng
Chập chờn theo ngọn đèn chong
Canh gà giục sáng tiếng trùng ngâm thu…
                                                               (Một mình gác trọ - tập Nhánh lục)         
Nếu thống kê chung thì mật độ từ láy được sử dụng rất dày đặc, cùng với thể thơ lục bát, nó đã khiến cho thơ Quách Tấn khẳng định thêm tính dân tộc, tạo một phong cách riêng cho thi sĩ trong phong trào Thơ Mới thế kỷ XX.
Nghệ thuật sử dụng từ láy phần nào cũng nói nên được đặc điểm của ngôn ngữ văn học, nhất là ngôn ngữ thi ca, là hàm súc, cô đọng, ý tại ngôn ngoại và giàu hình tượng, nó cũng phản ánh được nội dung đề cập tới. Nắm bắt được tầm quan trọng của từ láy góp phần bộc lộ tư tưởng chủ đề, cảm hứng chủ đạo và giá trị nghệ thuật đặc sắc của thi phẩm.
Bên cạnh các từ láy biểu hiện cảm xúc, trạng thái của sự vật nêu trên, Quách Tấn còn dùng nhiều chỉ sự tàn úa, héo hắt, buồn thảm của sự vật xung quanh như: tà, tàn, nhạt, héo/bầm, thảm, sa (mưa sa),… gợi sức biểu cảm nhất định cho người đọc. Ngoài ra, ông còn sử dụng một số từ được cho là “đắt”, mặc dù thơ ông khá giản dị, mộc mạc, nhưng bên trong cái mộc mạc đó dường như nó chứa đựng tinh hoa của ngôn từ, tạo điểm nhấn cho toàn bài thơ. Thử xét ví dụ sau:
Lưa thưa rụng giọt nắng chiều
Áo phơi gió nhẹ ít nhiều hương bay
                                                               (Tạnh mưa – tập Trăng hoàn hôn)
Ở đây không phải là rơi, rớt mà là “rụng giọt nắng chiều”. Từ “rụng” thường để chỉ trái cây chín rụng xuống, không có sự tác động của con người. Còn nắng chiều rất yếu và nhạt, cùng với sự kết hợp từ láy “lưa thưa” làm cho người đọc cảm nhận rõ nét về thời khắc tàn lụi của một ngày, như chính mình chứng kiến “giọt nắng” ấy.
Ngoài ra, tác giả còn gọi là “nhánh trăng”, “nhánh sương” trong một số bài thơ, tạo sự mới lạ trong thơ dù mang niềm hoài cổ, u buồn:
Nhánh trăng rơi rụng vô thường
Vẫn còn lóng lánh giọt sương anh đào”
                                                               (Vẫn còn – tập Nửa rừng trăng lạnh)
Tiếng lòng quạnh quẽ từ đây
Giọt quyên nhỏ lạnh hao gầy nhánh sương
                                                               (Giận hờn – tập Nửa rừng trăng lạnh)
Cuối cùng, tính hoài cổ trong thơ lục bát Quách Tấn còn được minh chứng rõ nét nhất bằng những điển tích, từ cổ hoặc những từ mang dáng dấp của thơ cổ. Các nhà thơ đời Đường hay thời trung đại Việt Nam khi làm thơ rất thích sử dụng điển văn học, nhằm làm tăng tính hàm súc của bài thơ, ý tại ngôn ngoại, mượn chuyện người xưa để nói chuyện nay, ví dụ:
Thơ đời Đường:
Cách giang do xướng Hậu đình hoa
                                                               (Bạt Tần Hoài – Đỗ Mục)
Thử địa biệt Yên Đan
Tráng sĩ phát xung quan
                                                               (Dịch thủy tống biệt – Lạc Tân Vương)
Thơ trung đại Việt Nam:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
                                                               (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu
Nghe ra như oán, như sầu phải chăng
                                                               (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đến Quách Tấn, mặc dù ông sống ở thế kỷ XX và là một trong nhưng thi nhân của phong trào Thơ Mới, nhưng trong thơ lục bát của ông vẫn xuất hiện điển văn học, làm cho bài thơ thêm tính trang trọng, mang hơi hướng Đường thi:
Mây Hoàng Hạc chờn vờn gác trọ
Ngọn huyền đăng gầy gọ dáng ly tao
                                                               (Quán trọ đêm thu – tập Nhánh lục)
Bây giờ sử khép Đông Chu
Nghìn thu chung kiếp phù du trước đèn
                                                               (Duyên kiếp – tập Giàn hoa lý)
Cung sâu giấc ngủ Thọ Dương đương nồng
                                                                        (Vườn xưa – tập Nửa rừng trăng lạnh)
Các từ cổ, từ Hán Việt như: “sắt cầm” (dù dâu bể sắc cầm không lỗi nhịpTài tình nhất phiến – tập Nhánh lục), “ba sinh” (lòng chưa tắt bể ba sinhBuồn riêng – tập Giàn hoa lý), “dặm trường” (ngoài non bước xuống lẻ loi dặm trườngBẽ bàng – tập Nửa rừng trăng lạnh), “châu sa” (hàng hàng gấm dệt hàng hàng châu sa – Gởi vào văn chương – tập Nhánh lục), “giai nhân” (quay vai chợt hứng nụ cười giai nhânViếng thành nội Huế - tập Nhánh lục)… làm cho bài thơ toát lên màu sắc trung đại, cổ điển.
3.3. Không gian – Thời gian:
Một yếu tố nghệ thuật nữa làm cho thơ Quách Tấn có tính hoài cổ, có nỗi niềm sâu lắng chính là yếu tố không – thời gian. Chúng tôi nhận thấy rằng, đa số các bài thơ lục bát trong phạm vi khảo sát đều được tác giả xác định bối cảnh và thời điểm khá cụ thể, được lồng ghép và hình tượng nghệ thuật mà chúng tôi đã đề cập trong mục 1. Thời gian thì trải từ chiều cho đến đêm khuya: “đêm thâu”, “trăng tà”, “tà dương”, “thâu đêm”, “canh khuya”:
Canh khuya một ngọn đèn mờ
Nhớ con đứng tựa bàn thờ khóc con
                                                               (Ngọn đèn mờ - tập Nhánh lục)
 Về không gian, thi sĩ ở tại (hoặc nhớ về) “chùa”, trên lầu cao, “gác trọ”, trong “vườn xưa”… hoặc thậm chí là một nơi vô định:
Mơ màng quán khói làng mây
Biết bao thương thảm những ngày mưa sa
                                                                           (Nắng chiều đông – tập Nhánh lục)
Bối cảnh và thời điểm trong thơ Quách Tấn chính là lúc mà con người hay suy nghĩ nhiều nhất, hay trăn trở và xúc động nhất. Nhắc đến thơ hoài cổ, người đầu tiên phải kể đến chính là Bà Huyện Thanh quan với những vần thơ hoài niệm về một thời vàng son vô định, nỗi buồn man mác giữa cảnh mây trời, bóng chiều đổ xuống:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
                                                               (Chiều hôm nhớ nhà)
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
                                                                        (Thăng Long hoài cổ)
Hay như tâm trạng “buồn điệp điệp” của Huy Cận trong Tràng giang cũng vào lúc “vãn chợ chiều”, “nắng xuống”, nên tâm trạng hoài cổ, u buồn của Quách Tấn trong các tập thơ lục bát với bối cảnh và thời gian trên cũng là điều dễ hiểu.
3.4. Giọng thơ:
Giọng thơ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên phong cách của mỗi tác giả. Xác định được giọng thơ trong sáng tác, người đọc sẽ nắm bắt được tư tưởng, tình cảm, thái độ của chủ thể trữ tình, cái tôi cá nhân tác giả được đặt vào trong tác phẩm.
Đầu tiên phải kể đến thơ Quách Tấn mang giọng điệu rất tự nhiên, gần gũi với đời sống hằng ngày nơi thôn quê:
Già càng thương cháu thương con
Lo tìm hạnh phúc mong còn sức lo
Sông sâu gặp buổi đò đầy
Bâng khuâng nắng vọi cánh còn lưng mây
                                                   (Cánh cò – tập Trăng hoàng hôn)
Thơ ông không chỉ mang giọng điệu đời sống mà còn có nhiều giọng khác, giọng thơ lúc phong lưu, có lúc lại phóng dật:
Mái đầu dầu đã hết xanh
Trước sau đời vẫn một tình với thơ
Hiu hiu mạch sống tràn bờ
Mùa hoa nở trọn những giờ say xuân
                                                               (Một tình với thơ – tập Trăng hoàng hôn)
Tuy nhiên, giọng thơ chủ đạo của ông trong bốn tập lục bát này vẫn là giọng thơ mang nỗi buồn man mác có khi sầu thảm về sự mất mát, về nỗi nhớ nhung quê hương, người thân, người xưa đã khuất hay cũng có khi là một nỗi nhớ vô định:
Chim non chiu chit gọi đàn
Ngàn xanh thắm gọi muôn vàn nhớ thương
                                                               (Ngàn xanh – tập Trăng hoàng hôn)
Canh khuya một ngọn đèn mờ
Nhớ con đứng tựa bàn thờ khóc con
                                                               (Ngọn đèn mờ - tập Trăng hoàng hôn)
Mỗi tác phẩm có thể tồn tại nhiều giọng khác nhau nhưng dù thế nào nó cũng thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu trong các tác phẩm có vai trò rất lớn trong sự tạo dựng kết cấu cũng như trong tiếp nhận văn học.
3.5. Cú pháp:
Trên cơ sở vận dụng linh hoạt từ láy và một số từ ngữ mang sắc thái biểu cảm cao như đã đề cập ở trên, Quách Tấn còn sử dụng cấu trúc điệp từ khá thành công, tạo cho bài thơ có chút tính nhạc:
Mưa mai không hẹn nắng chiều
Nắng chiều sưởi ấm cánh diều mắc mưa
                                                                           (Mưa nắng)
Đêm qua ngồi vá trăng rằm
Đêm nay ngồi vét ruột tằm kéo tơ
                                                                           (Ai nỡ - tập Nửa rừng trăng lạnh)
Dù không sử dụng các thể của thơ Đường có tính đăng đối rất chặt chẽ như thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt nhưng với lục bát, tác giả đôi lúc vẫn tạo ra những vế đối trong một câu:
Âm thầm dệt lại giấc mơ
Nửa nghi đã tỉnh, nửa ngờ còn say
                                                                           (Ai nỡ - tập Nửa rừng trăng lạnh)
Thế giới nghệ thuật trong thơ lục bát của Quách Tấn thật đa dạng và tinh tế. Các yếu tố được kết hợp linh hoạt với nhau, hình tượng, ngôn ngữ, thể thơ, giọng điệu và một số cấu trúc ngữ pháp trong một câu, một bài thơ đã làm rõ thêm tính hoài cổ riêng của thi sĩ. Dù là một nhà thơ Mới, nhưng với thể thơ truyền thống dân tộc, cùng với những thi liệu của văn học học cổ điển phương Đông, Quách Tấn đã làm cho phong trào Thơ Mới thêm nhiều màu sắc và nhiều phong cách, được nhà phê bình Hoài Thanh gọi là “sứ giả của đời Đường”.

C. KẾT LUẬN
Quách Tấn, với ngòi bút thi vị đậm đà, đã mượn truyền thống thơ ca Việt Nam lục bát thể mà gửi trọn khối tình thơ đầy chất hoài niệm của mình. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng mang nhiều nỗi u uất, sầu bi và tiếc nhớ về quê nhà với cảnh cũ người xưa, về nỗi chia lìa sanh tử với thân bằng quyến thuộc, về mối đời lao khổ, vô thường hay đứt đoạn mà gieo sầu cho thế gian,... Tình trong thơ lục bát Quách Tấn thể chừng như độc chu giữa cuồng thuỷ, một mình đến một mình đi, thiếu vắng những mối tương giao. Như ông đã thổ lộ:
“Qua canh mưa gió sụt sùi
Trở nghiêng gối mộng mình vui với mình”
Tình thơ lục bát Quách Tấn thể như “tân thanh” của giữa dòng Thơ Mới. Không phải ông dừng lại thủ cựu giữa dòng chảy của thời đại chung mà vì con thuyền ấy đã chọn lối tiến tới xuôi dòng chậm rãi, nhẹ nhàng để giữ cái thế an bình giữa bể dâu:
“Đời người ngày một phấn hương
Đời ta ngày một gió sương một nhiều
Ao thu lai láng ráng chiều
Lửng lơ nhuộm thắm cánh diều lưng mây”
Bên cạnh khối tình thơ đặc sắc, thơ lục bát thể của ông cũng đã mang đến cho người đọc phong vị hư thực, cựu tân hoà lẫn vô cùng. Đó là bình cũ với thể thơ rất đổi thân quen, với những hình bóng của “Sơn, thuỷ, yên, hoa, tuyết, nguyệt, phong”, với những lớp từ Hán Việt cổ kín,... Ấy thế mà rượu mời đọc giả lại mang đậm phong vị cái tôi cá nhân, nói những chuyện cá nhân, kể những chuyện đời thường bình dị, rất khác với nghìn năm thi đàn đã quen với con người phận vị, với những khối tự sự đầy “hùng tâm tráng khí”. Vì lẽ cái thế tương giao cựu tân tinh tế như vậy mà thơ lục bát thể Quách Tấn nói riêng và cả sự nghiệp văn chương của ông nói chung mang nét đẹp rêu phong cao nhã, thanh khiết mà vẫn dạt dào tình cảm, đậm đà phong vị quê hương.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.      Quách Giao, Quách Tấn tuyển tập thơ, NXB hội nhà văn, 2006.
2.      Quách Giao, Quách Tấn qua cái nhìn phê bình văn học, NXB Trẻ, TP.HCM.
3.      Phạm Khải, Nhà thơ Quách Tấn: Mấy chục năm qua giấc mộng dài, báo Pháp Luật, số ra ngày 21/05/2011.
4.      Phạm Trường Nghị, Thi thoại thơ Quách Tấn, Blog Bình Định quê tôi, http://nguoibinhdinh.vnweblogs.com/post/13094/382487, đăng ngày 24 tháng 11 năm 2012, truy cập lúc 15:20 ngày 30/4/2013.
5.      Thu Tứ, Quách Tấn, Chim Việt cành nam, http://chimviet.free.fr/vanhoc/thutu/thutn107_QuachTan.htm, truy cập lúc 8:00 ngày 28/4/2013.
6.      Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2006.
7.      Quách Giao (giới thiệu và tuyển chọn), Tuyển tập thơ Quách Tấn, NXB. Hội nhà văn, 2006.




[1] Nhiều tác giả, Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình văn học, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1994, tr.90.
[2] Nhiều tác giả, Quách Tấn, qua cái nhìn phê bình văn học, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1994, tr.266.

* Bài tiểu luận Văn2011
Trường ĐH KHXH&NV
Khoa Văn học và Ngôn ngữ



> Bài viết được đăng 19/6/2014
Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét