Quan niệm của Millet - Phê bình nữ quyền

Phê bình văn học nữ quyền
1. Quan niệm của Millet

Barrett trình ra một sự phân tích nữ quyền Marxist về đại diện phái tính. Trước hết, bà khen ngợi sự biện luận duy vật chủ nghĩa của Virginia Woolf rằng những điều kiện mà dưới chúng đàn ông và đàn bà sản xuất văn học thì khác nhau về vật chất và ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của cái họ viết. Chúng ta không thể tách biệt những câu hỏi về sự khuôn sáo phái tính với những điều kiện vật chất của chúng trong lịch sử. Điều này có nghĩa rằng sự giải phóng sẽ không đến một cách đơn thuần từ những sự thay đổi trong văn hóa. Thứ hai, hệ tư tưởng về phái tính ảnh hưởng cung cách mà những văn bản của đàn ông và đàn bà được đọc và cách những quy điển (canon) kiệt xuất được thiết lập. Thứ ba, những nhà phê bình nữ quyền phải kể đến bản chất hư cấu của những văn bản văn học và không đắm mình trong “luân lí học thịnh hành” bằng cách kết tội toàn bộ tác giả đàn ông vì tất cả sự phân biệt giới tính trong những cuốn sách của họ và tán đồng những tác giả đàn bà vì nêu lên những đề xuất về phái tính. Những văn bản không có những nghĩa cố định: những sự diễn giải phụ thuộc vào tình huống và hệ tư tưởng của người đọc. Tuy nhiên, đàn bà có thể và nên cố gắng để khẳng định sự ảnh hưởng của họ trên cung cách mà ở đó giới tính được định nghĩa và thể hiện một cách văn hóa.


Trong bài giới thiệu cho cuốn “Phê bình nữ quyền và thay đổi xã hội” (Ferminist Criticism and Social Change, 1985) Judith Newman và Deborath Rosenfelt biện luận cho một sự phê bình nữ quyền duy vật chủ nghĩa tránh chủ nghĩa yếu tính bi thảm của những nhà phê bình nữ quyền kia đang phóng chiếu một hình ảnh về đàn bà như bất lực một cách phổ quát và ngoan ngoãn một cách phổ quát. Họ chỉ trích cái họ cho là tính nghĩa đen hẹp hòi của tác phẩm có thế lực “Người đàn bà điên trong rầm thượng” (The Madwoman in the Attic) của Gilbert và Gubar, và đặc biệt là họ sao nhãng về những thực tế xã hội và kinh tế đóng một phần quan trọng trong việc xây dựng vai trò phái tính (xem dưới đây về Gilbert và Gubar). Penny Boumehla, Cora Kaplan và những thành viên của tập thể văn học nữ quyền Marxist đã đưa những văn bản văn học vào phân tích hệ tư tưởng đã được Althusser và Macherey khai triển để hiểu sự hình thành lịch sử của những phạm trù phái tính.

Bản viết phụ nữ và những nhà nữ phê bình

“Một nền văn học riêng của họ” (A Literature of Their Own, 1986) của Elaine Showalter khảo sát những nữ tiểu thuyết gia vương quốc Anh từ thời những chị em nhà Bronte với quan điểm về kinh nghiệm của phụ nữ. Bà đưa ra quan điểm rằng, trong khi không có tính dục đàn bà hay trí tưởng tượng đàn bà cố định hoặc bẩm sinh, nhưng vẫn có một sự khác biệt sâu sắc giữa bản viết của đàn bà với đàn ông, và rằng một truyền thống trọn vẹn về văn viết đã bị sao nhãng bởi những nhà phê bình đàn ông: “Cái lục địa mất đi của truyền thống nữ giới dâng lên giống như đảo Atlantics từ biển của văn học Anh vậy”. Bà phân chia truyền thống này thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn “phái nữ” (the feminine phase), 1840-1880, bao gồm Elizabeth Gaskell và George Eliot. Những người viết nữ đã bắt chước và nhập nội những tiêu chuẩn thẩm mĩ đàn ông ưu thế, điều này bắt buộc những người viết nữ vẫn còn là quý bà. Phạm vi chính về công việc của họ đã là vòng gia đình và xã hội trực tiếp của họ. Họ đã chịu đựng tội lỗi về sự dấn thân ích kỉ của họ đối với việc sáng tác và chấp nhận những hạn chế nhất định trong cách biểu hiện, tránh xa sự thô lậu và nhục dục. Tuy nhiên, tôi sẽ biện luận rằng thậm chí George Eliot có phần Thanh giáo cũng xoay xở để ngụ ý nhiều sự nhục dục trong Nhà máy xay lúa trên Lụa Sồi (The Mill on the Floss). Trong bất cứ trường hợp nào, sự thô lậu và nhục dục đã không dễ dàng được chấp nhận trong tiểu thuyết của đàn ông; Tiểu thuyết Cô Tess ở vùng D’Urbervilles (Tess of the D’Urbervilles) gây tranh cãi của Hardy phải dùng đến sự ngụ ý và hình tượng thi ca để truyền đạt tính dục của nhân vật nữ chính.

Giai đoạn “nữ quyền” (the feminist phase), 1880 - 1920, bao gồm những người viết như Elizabeth Robins và Olive Schreiner, phản đối những giá trị của đàn ông. Những nhà nữ quyền cấp tiến của thời kì này đã đề xướng những xã hội không tưởng về kiểu Amazon tách biệt và những kết đoàn phụ nữ đòi quyền bầu cử. Thứ ba, giai đoạn “giống cái” (từ 1920 trở đi) đã thừa hưởng những đặc tính của những giai đoạn trước và đã phát triển ý tưởng về văn viết đàn bà và kinh nghiệm đàn bà chuyên biệt trong giai đoạn về tự khám phá. Rebecca West, Katherine Mansfied và Dorothy Richardson là những nữ tiểu thuyết khởi đầu quan trọng nhất trong giai đoạn “giống cái” này, theo Showalter. Trong cùng giai đoạn mà Joyce và Proust đang viết những tiểu thuyết dài về ý thức chủ quan, tiểu thuyết dài Cuộc hành hương (Pilgrimage) của Richardson đã lấy chủ đề là ý thức phái nữ. Những quan điểm của bà Showalter về bản viết đã tiên đoán được những lí thuyết nữ quyền mới đây. Bà đã ủng hộ một kiểu năng lực âm, một “sự tiếp nhận đa chiều” mà bác bỏ những quan điểm và ý kiến xác định mà bà đã gọi là “những sự việc phái nam”. Showalter viết rằng ‘bà cũng hợp lí hóa cho vấn đề về “những sự tuôn trào chẳng nên hình dạng” của phụ nữ bằng cách vạch ra một lí thuyết mà đã xem sự chẳng nên hình dạng như biểu hiện tự nhiên của đồng cảm phái nữ, và khuôn thức như kí hiệu về tính một chiều của đàn ông’. Bà cố gắng tự giác để tạo ra những câu tỉnh lược và phần mảnh để mà truyền đạt điều bà cứu xét là hình dạng và kết thức của tâm trí đàn bà. Sau Virginia Woolf, một sự chân thực mới về tính dục (ngoại tình, đồng tính nữ, vân vân) đi vào tiểu thuyết của phụ nữ, đặc biệt trong tác phẩm của Jean Rhys. Một thế hệ mới của đàn bà được giáo dục đại học, những người không còn cảm thấy nhu cầu biểu hiện những sự bất bình phái nữ, bao gồm A. S. Byatt, Margaret Drabble, Christine Brooke-Rose và Brigid Brophy. Tuy nhiên, trong những năm đầu thập niên 1970 một sự chuyển hướng về một giọng giận dữ hơn xảy ra trong những tiểu thuyết của Penelope Mortimer, Muriel Spark và Doris Lessing.

Virginia Woolf đã viết nhiều về văn viết của đàn bà và, giống như Richardson, là một người tiên phong quan trọng của phê bình nữ quyền hiện đại. Trong khi bà không bao giờ chấp nhận một thế đứng nữ quyền, nhưng bà liên tiếp xem xét những vấn đề đối diện những người viết nữ. Bà tin rằng phụ nữ đã luôn đương đầu với những trở ngại xã hội và kinh tế đối với những tham vọng văn học của họ. Chính bản thân bà cũng nhận thức rõ về nền giáo dục bị hạn chế mà bà nhận được (bà không được dạy tiếng Hi Lạp, chẳng hạn). Bằng cách áp dụng đạo lí tính dục về “lưỡng tính” (androgyny), của nhóm Bloomsbyry, bà đã chấp nhận việc rút êm đềm khỏi cuộc tranh đấu giữa phân biệt giới tính đàn ông và đàn bà. Bác bỏ một ý thức nữ quyền, bà hi vọng đạt được một sự cân bằng giữa một sự tự thực hiện “nam tính” với sự tự hủy diệt “nữ tính”. Những cơn tấn công lặp đi lặp lại về điên loạn và sự tự sát sau rốt của bà có lẽ gợi ý rằng cuộc tranh đấu để vượt qua tính dục bị thất bại, mặc dù theo phân tâm học chúng có thể cũng được cho là những triệu chứng về sự kháng cự của bà với một nền phụ quyền đàn áp. Bà đã muốn nữ tính của bà là vô thức để mà bà có thể “tránh được cuộc đối đầu với giống cái hay giống đực” (Căn phòng riêng/ A Room of One’s Own). Toril Moi đưa ra một sự diễn giải khác hẳn về quan niệm lưỡng tính của Woolf. Áp dụng sự liên kết của Kristeva giữ nữ quyền với văn viết tiên phong (xem dưới đây) Moi biện luận rằng Woolf thì không chú ý một “sự cân bằng” giữa những mẫu phái nam và phái nữ nhưng trong một sự chuyển chỗ trọn vẹn về những căn cước phái tính cố định, và rằng bà tháo rời những khái niệm bản chất luận về phái tính bằng cách phân tán những quan điểm bền vững trong những tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện đại của bà. Woolf, theo Moi biện luận, đã bác bỏ duy nhất loại nữ quyền mà đơn giản là một chủ nghĩa sô-vanh đàn ông đảo ngược đó. Bà đã chỉ ra nhận thức sâu sắc về sự riêng biệt của văn viết của phụ nữ. Sự tường thuật của bà về Nữ công tước Newcastle lập dị hóm hỉnh lôi cuốn sự chú ý tới sự sáng tạo rất “phái nữ” của một nhà văn nữ thế kỉ 17.

Mặc dù những triết lí của bà thì phù phiếm, và những vở kịch của bà quá quắt, và những câu thơ của bà chủ yếu ngớ ngẩn, nhưng đại bộ tác phẩm của nữ công tước đã lên men vì một mạch nguồn của ngọn lửa đích thực. Người ta chẳng thể không theo đuổi sự cám dỗ của cá tính thất thường và đáng yêu của bà khi nó lan man và lấp lánh từ trang này qua trang khác. Có một điều cao quý, hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt và quả cảm, cũng như gàn dở và ngớ ngẩn, về bà ấy.

Virginia Woolf dường như đang nói rằng sự nghiệp “phái nam” ngớ ngẩn của nữ công tước (“đại bộ tác phẩm”) bừng sáng bởi một sự bướng bỉnh “đàn bà” bỡn cợt (“thất thường”, “lan man”). Câu cuối cùng thì bộc lộ một cách đặc biệt: “cao quý và hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt” nghe có vẻ như những thuộc tính phái nam, trong khi “gàn dở và ngớ ngẩn” nghe có vẻ phái nữ. Bằng cách kết hợp những hàm ý tương phản, bà chạm tới một kiểu phát tán lưỡng tính của căn cước giới tính cố định.

Tiểu luận có ảnh hưởng và lôi cuốn nhất của bà về những người viết nữ là “Những chuyên ngành cho phụ nữ” (Professions for Women). Bà đã coi sự nghiệp của chính mình như bị cản trở trong hai cách. Trước hết, cũng như nhiều người viết thế kỉ 19, bà bị cầm tù bởi hệ tư tưởng về thân phận phụ nữ. Lí tưởng về “Thiên sứ trong nhà” (the Angel in the House) [thuật ngữ kẻ cả của Coventry Patmore] hô hào phụ nữ nên biết cảm thông, không ích kỉ và trong sạch; để sáng tạo thời gian và không gian cho văn viết, một phụ nữ phải sử dụng những mưu mẹo và sự nịnh nọt đàn bà. Thứ hai, sự cấm kị về diễn đạt dục vọng đàn bà đã ngăn cản bà “nói lên sự thật về những kinh nghiệm của chính cá nhân như một thân thể”. Sự khước từ giới tính đàn bà và vô thức thì chẳng hề được vượt thắng trong tác phẩm hay cuộc sống của bà. Quả thực, bà đã không tin vào một vô thức đàn bà, nhưng đã nghĩ rằng đàn bà viết khác đàn ông không vì họ khác nhau về tâm lí mà bởi vì những kinh nghiệm xã hội của họ khác nhau. Những toan tính của bà để viết về những kinh nghiệm của đàn bà thì có ý thức và nhằm khám phá những cách thức ngôn ngữ của việc miêu tả cuộc sống chật hẹp của phụ nữ. Bà tin rằng cuối cùng tới khi nào đàn bà đạt được sự bình đẳng xã hội và kinh tế với đàn ông, sẽ không còn gì để ngăn cản đàn bà khỏi việc phát triển tự do những tài năng nghệ thuật của họ.

Văn bản nữ giới phê bình sơ kì gây ấn tượng nhất với tôi là cuốn Nghĩ về đàn bà (Thinking about women,1986) của Mary Ellmann. Bà thuộc về giai đoạn “chính trị” sơ kì của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại, nhưng báo trước những sự phát triển tinh tế hơn. Luận điểm chính của bà là văn hóa phương Tây thì hoàn toàn tràn ngập bởi cái mà bà gọi là “tư duy bằng sự tương tự giới tính” - một sự áp dụng phổ biến của những khuôn sáo phái tính cho gần như mọi thứ trong vũ trụ bao gồm cả nghệ thuật. Bà tấn công một cách hóm hỉnh vào “phê bình dương vật”, chế nhạo quan niệm phi lí về “Tính nam nhi trong nghệ thuật” của Walter Pater mà ông định nghĩa như một sự kĩ xảo nghệ thuật có ý thức hoàn toàn, một “sự bền bỉ của trực quan và chủ định, tinh thần của cấu trúc như đối lập với cái rõ là không mạch lạc hay sẵn sàng rơi thành mảnh vụn, và sự đối lập với cái cuồng loạn hay những tác phẩm ngẫu nhiên”. Trong chương cuối Ellmann khảo sát những cung cách mà trong đó những người viết nữ đáp lại ngọn trào tràn dâng của văn hóa phụ quyền. Không giống Showalter, Ellmann không có khuynh hướng đồng nhất văn viết đàn bà với kinh nghiệm đàn bà, nhưng tương quan nó với những phong cách văn học nhất định. Bà biện luận rằng, người viết nữ, thường thiết lập một viễn cảnh khác biệt có tính lật đổ bằng cách bào mòn những xác định về sự phán xét và sự cố định của tiêu điểm. Những tiểu thuyết của Ivy Compton Burnett giảm trừ “những quan điểm” xác định thành những nhận xét bên lề, chối bỏ chúng quyền uy của những phán xét phái nam. Mẫu này của văn viết thường sản xuất ra một hiệu ứng về tĩnh thái khôi hài, mà trong đó những phán xét được dự bị và những kết luận không được đẩy tới. Trong quan điểm của bà, không phải mọi người viết nữ đều áp dụng một phong cách văn viết đàn bà; Mary McCarthy viết với quá nhiều quyền uy và Charlotte Bronte với quá nhiều sự dấn thân và say mê nghiêm túc. Ngược lại, sự kiểu cách trong văn phong bào mòn một cách tinh tế đó được coi trọng bởi Ellmann thì đã được tìm thấy trong Oscar Wilde và, người ta có thể cộng, Joe Orton, cả hai thì đều không chính thống về giới tính.

Ellmann lưu ý tới cuốn Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies, 1943) của Jane Bowles, một tiểu thuyết hài kì quái về hai người đàn bà sa sút vào một thế giới thứ cấp của trụy lạc trong khi vẫn duy trì một sự hợp thức lịch thiệp trong cách phát âm và cách ứng xử. Đàn bà ăn mừng trong một cung cách hoàn toàn không tự giác những niềm vui tế nhị về sự độc lập của đàn bà. Cuốn tiểu thuyết này là một khảo sát sơ kì tuyệt vời về sự lật đổ của đàn bà với những giá trị đàn ông. Frieda Copperfield khao khát một khách sạn tiện nghi ở Panama mà bà viếng thăm cùng với chồng mình. Ông ưa thích hơn việc xài tiền vào “những đồ vật” sẽ lâu bền và, khi Frieda không đồng ý, ông cau có:

“Nếu em sắp khốn khổ, chúng ta sẽ đến khách sạn Washington,” ông Copperfield nói. Đột nhiên, ông đánh mất uy thế của mình. Mắt ông đục ngầu và ông bĩu môi. “Nhưng anh sẽ trở nên đáng thương ở đó, anh có thể đảm bảo với em. Nó sẽ trở thành quá buồn chán chết tiệt.” Ông giống như một trẻ nít và bà Copperfield buộc phải dỗ dành ông. Ông có một cái mẹo để khiến bà cảm thấy có trách nhiệm.

Chỉ một tiểu thuyết gia nữ mới có thể dùng sự trả thù độc ác như vậy trên uy thế của đàn ông và “tinh thần xây dựng” của ông ta! Bowles sử dụng những nhân vật chính của mình để khảo sát một ý thức và hệ thống giá trị “đàn bà”. Họ bị thu hút vào cái cấm bởi vì nó thách thức quyền uy đàn ông. Họ tìm kiếm một cách vô tư và vô trách nhiệm niềm hạnh phúc và “sự bình yên bên trong”. Christina Goering bỏ rơi sự khả kính giai cấp thượng lưu của bà và sau cùng trở thành một gái gọi cao cấp ở Panama. Trong tiến trình “suy tàn” của mình bà quan sát những sự phòng thủ và sự mâu thuẫn kì quặc của bọn đàn ông hâm mộ mình. Cha của Arnold, người cạnh tranh khá trắng trợn với con trai để ve vãn Christina, tự nhiên nhắc đến những hi vọng của ông rằng cô ấy sẽ đứng “về phía tôi”. Cô hỏi “Điều này bao hàm những gì?” Ông đáp lại, “nó bao hàm… việc em là một người đàn bà chân chính. Đồng tình và sẵn lòng bảo vệ tất cả những điều anh nói và làm. Đồng thời sẵn sàng mắng nhiếc anh chút xíu thôi”. Sáng hôm sau, ông xuất hiện với một cổ áo không gài và mái tóc rối, cố gắng gạt bỏ những trách nhiệm hôn nhân với một sự vô tư kiểu người Bohêmiêng, và tuyên bố, không nhận thấy những sự bất nhất của ông, “Vẻ đẹp của người nghệ sĩ nằm trong tâm hồn như trẻ thơ.” Trong sự theo đuổi hạnh thánh của cô, Christina cuối cùng tự hỏi câu hỏi của “đàn ông”, “Có khi nào một phần của tôi đã bị che đậy mà tôi nhìn không ra cũng đang mau chồng chất tội lỗi như bà Copperfield không?” Người tường thuật điềm tĩnh kết luận: “Cô Goering nghĩ cái khả năng sau này thật đáng quan tâm nhưng chẳng có gì quan trọng.”

Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies) chỉ hướng về một phê bình nữ quyền vượt quá những cuộc luận chiến nghiêm khắc của Kate Millett và tuy vậy vẫn xói mòn một cách tinh tế tất cả những giá trị và khuôn sáo “đàn ông”. Chẳng hạn, bà Copperfield tuyên bố “Tôi luôn là một người sùng bái thân thể… nhưng điều đó không có nghĩa rằng tôi phải lòng những người có thân thể đẹp. Vài thân thể tôi thích thì kinh khủng.” Ở đây điều đàn ông có thể coi như tính bất thường của đàn bà là được chuyển dịch âm thầm thành sự khác biệt của đàn bà làm ta sáng mắt.

Trong cuốn Người đàn bà điên trong rầm thượng (The Madwoman in the Attic, 1979) Sandra Gilbert và Susan Gubar biện luận rằng những người viết nữ chủ chốt kể từ Jane Austen đã đạt được một tiếng nói đàn bà khu biệt bằng cách “cùng một lúc tuân thủ và phá vỡ những chuẩn mực văn học phụ quyền”. Những khuôn mẫu đàn bà về “thiên sứ” và “quái vật” (người đàn bà điên) đồng thời được chấp nhận và giải cấu trúc. Tuy nhiên, như Mary Jacobus đã vạch ra, Gilbert và Gubar có khuynh hướng giới hạn tự do của những người viết nữ bằng cách xây dựng họ như “những nạn nhân có tài ăn nói khác thường của một cốt truyện do phụ quyền gây ra”. Một quan điểm triệt để hơn về sự khác biệt của đàn bà được mở ra bởi phân tâm học hiện đại.(còn nữa)

HỒ THỊ DƯƠNG LIỄU dịch





> Bài viết được đăng 19/6/2014
Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét