I- Ở góc độ thần học:
Những người chủ trương cải cách (reformations) trên
đã hoàn toàn bác bỏ mọi nền tảng thần học về bí tích và cơ cấu tổ chức giáo quyền
(Hierachy) của Giáo Hội Công Giáo. Họ chống lại vai trò trung gian của Giáo Hội
trong việc hòa giải con người với Thiên Chúa qua bí tích tha tội hay hòa giải
(reconciliation) vì họ không nhìn nhận bí tích truyền chức thánh (Holy Orders)
qua đó Giám mục, Linh mục được truyền chức thánh và có quyền tha tội nhân danh
Chúa Kitô (in persona Christi) cũng như thi hành mọi sứ vụ (ministry) thiêng
liêng khác. (rửa tội, thêm sức, thánh thể, Xức dầu thánh, chứng hôn).
Điểm căn bản trong nền thần học của Tin Lành là con
người đã bị tội tổ tông phá hủy mọi khả năng hành thiện rồi (làm việc lành),
nên mọi nỗ lực cá nhân để được cứu rỗi đều vô ích và vô giá trị. Chỉ cần tuyên
xưng đức tin vào Chúa Kitô dựa trên Kinh Thánh là được cứu rỗi mà thôi (Sola
fide, sola scriptura). Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo tin rằng con người vẫn có
trách nhiệm cộng tác với ơn Chúa để được cứu rỗi. Nói khác đi, muốn được cứu độ,
con người phải cậy nhờ trước hết vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa và
công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô, nhưng cũng phải có thiện chí công
tác với ơn thánh để sống và thực thi những cam kết khi được rửa tội. Nếu không,
Chúa không thể cứu ai được như Chúa Giêsu đã nói rõ: “không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ có ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt
7:21).
Nói khác đi, không phải rửa tội xong, rồi cứ hát
Alleluia và kêu danh Chúa Kitô là được cứu độ. Điều quan trong hơn nữa là phải
sống theo đường lối của Chúa, nghĩa là thực thi những cam kết khi được rửa tội:
đó là mến Chúa, yêu người và xa lánh tội lỗi. Nếu không, rửa tội và kêu danh
Chúa thôi sẽ ra vô ích.
Anh em tin lành không chia sẻ quan điển thần học
này, nên họ chỉ chú trọng vào việc đọc và giảng kinh thánh nhưng không nhấn mạnh
đến phần đóng góp của con người như Chúa Giêsu đòi hỏi trên đây. Ngoài phép rửa
và kinh thánh, họ không tin và công nhận một bí tích nào khác. Điển hình, vì
không công nhận phép Thánh Thể, nên họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện
trong bánh và rượu, mặc dù một số Giáo phái Tin lành có nghi thức bẻ bánh và uống
rượu nho khi họ tụ họp để nghe giảng kinh thánh. Sứ vụ quan trọng của họ chỉ là
giảng kinh thánh vì họ chỉ tin có Kinh Thánh (Sola Scriptura) mà thôi.
Tóm lại, có năm chữ La tinh có thể miêu tả niềm xác
tín thần học của họ, dù không phải tất cả trong số họ đều tin như vậy:
1. Solus Christus (Duy Chúa Cơ Đốc): Chỉ có Chúa Cơ
Đốc là đấng hoà giải giữa Thiên Chúa và con người (I Ti:2.5). Ngoài một mình
Chúa Giêsu ra, không có một ai khác có thể làm trung gian hòa giải hoặc cầu
thay cho con người, kể cả Mẹ Maria, các sứ đồ và thánh đồ đã tử vì đạo.
2. Sola Scriptura (Duy Thánh Kinh): Tín hữu Tin Lành
tin rằng truyền thống tông đồ chỉ có thể xuất phát từ các tông đồ là những người
được chọn bởi chính Chúa Giêsu Cơ Đốc, và như thế các truyền thống này chỉ có
thể tìm thấy trong Kinh Thánh được viết bởi các tông đồ (I Côr 11.2; Ga: 1.8;
II Tês: 2.15), vì vậy Thánh kinh là thẩm quyền duy nhất cho lời giáo huấn của
các tông đồ. Tín đồ Tin Lành tin rằng chỉ có Kinh Thánh là chân truyền từ các
tông đồ, hợp pháp và là chuẩn mực cho đức tin. Tín hữu Tin Lành bác bỏ đức tin
Công giáo cho rằng Đức Giáo hoàng là Tông đồ của Chúa Giêsu và giáo huấn của
Giáo hoàng có thẩm quyền tông đồ.
3. Sola Fide (Duy đức tin): Trái với giáo lý Công
giáo về công đức (Giacơ:2.24: ICôr: 13.2), về sự ăn năn và phép giải tội, lễ
Misa cho người chết, công đức của các thánh và của người tử đạo và về ngục luyện
tội, tín đồ Tin Lành tin rằng mọi tín hữu đều là thầy tế lễ, được hoà giải với
Thiên Chúa chỉ bởi đức tin vào Chúa Giêsu mà thôi (Rô:3.28; Eph:2.8-9).
4. Sola Gratia (Duy ân điển): Đối nghịch với giáo lý
Công giáo cho rằng cả đức tin và công đức là cần thiết (Eph:2.8-9; Gal:5.6),
các nhà cải cách tin rằng sự cứu rỗi hoàn toàn là sự ban cho từ Thiên Chúa, vận
hành bởi Chúa Thánh Linh, do sự cứu chuộc của Chúa Giêsu, chứ không bởi công đức
của tín hữu.
5. Soli Deo Gloria (Duy Chúa được tôn cao): đối nghịch
với niềm tin cho rằng con người sống để khẳng định cái tôi và thể hiện chính
mình cho người khác xem thấy, Tín hữu Tin Lành cho biết Kinh Thánh khẳng định rằng
mục đích sống duy nhất mà Thiên Chúa ban cho con người, đó là để sống vì Thiên
Chúa và tôn cao Thiên Chúa (Côlôse 1:16; Êsai 43:6-7, 21; 2Côrinhtô 5:15).
II- Giải thích Kinh Thánh:
Nhưng Kinh Thánh được cắt nghĩa theo cách hiểu
riêng của họ, nên có rất nhiều mâu thuẫn hay trái ngược với cách hiểu và cắt
nghĩa của Giáo hội Công Giáo.
Thí dụ, câu Phúc Âm trong Matthêu 22: 8-9 trong đó
Chúa Giêsu dạy các tông đồ “ không được gọi ai dưới đất là cha là thầy vì anh
em chỉ có một Cha là Cha trên trời” mà thôi. Vì họ hiểu câu này hoàn toàn theo
nghĩa đen (literal meaning) nên đã chỉ trích Giáo Hội Công giáo là ‘lạc
giáo=heretical” vì đã cho gọi Linh mục là “Cha” (Father, Père, Padre)
Thật ra, Giáo Hội cho phép gọi như vậy, vì căn cứ
vào giáo lý của Thánh Phaolô, và dựa vào giáo lý này, Công Đồng Vaticanô II
trong Hiến Chế Tín lý Lumen Gentium đã dạy rằng; “Linh mục phải chăm sóc giáo
dân như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh ra họ cách thiêng liêng nhờ
phép rửa và giáo huấn.” (1 Cor 4: 15; LG. số 28).
Một điểm sai lầm nữa trong cách đọc và hiểu kinh
thánh của Tin lành là câu Phúc Âm Thánh Marcô kể lại một ngày kia Chúa Giêsu
đang giảng dạy cho một đám đông người thì Đức Mẹ cà các môn đệ của Chúa đến. Có
người trong đám đông đã nói với Chúa rằng: “Thưa Thầy có mẹ và anh em, chị em của
Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy.” (Mc 3:32). Anh em tin lành đã căn cứ vào câu
này để phủ nhận niềm tin Đức Mẹ trọn đời đồng trinh của Công Giáo và Chính thống,
vì họ cho rằng Mẹ Maria đã sinh thêm con cái sau khi sinh Chúa Giêsu. Nghĩa là
họ chỉ tin Đức Mẹ đồng trinh cho đến khi sinh Chúa Giêsu mà thôi. Thật ra cụm từ
“anh chị em“ trong ngữ cảnh (context) trên đây chỉ là anh chị em theo nghĩa
thiêng liêng (spiritual brotherhood, sisterhood) và đây là cách hiểu và giải
thích Kinh Thánh của Công Giáo và Chính Thống, khác với Tin lành.
Sau hết, về mặt quyền bính, các giáo phái Tin lành đều
không công nhận Đức Giáo Hoàng là Đại Diện duy nhất của Chúa Kitô trong sứ mạng
chăn dắt đoàn chiên của Người trên trần thế.
III- Về bí tích:
Tất cả các nhóm Tin Lành đều không có các bí tích
quan trọng như Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Sức Dầu bệnh nhân và Truyền Chức
Thánh vì họ không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) do đó, không có
chức linh mục và giám mục hữu hiệu để cử hành các bí tích trên.
Đa số các nhóm này chỉ có phép rửa (Baptism) mà
thôi. Do đó, khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo, tín hữu Tin Lành nào không được rửa
tội với nước và công thức Chúa Ba Ngôi (The Trinitarian Formula) thì phải được
rửa tội lại như người tân tòng (catechumen). Nếu họ đã được rửa tội thành sự
(theo công thức trên) thì chỉ phải tuyên xưng đức tin khi gia nhập Công Giáo mà
thôi.
Vì có sự khác biệt trong quan điểm liên quan đến các
vấn đề thần học, giáo nghi và tổ chức,nên có rất nhiều phái Tin Lành, khó có được
con số chính xác, nhưng ước tính hiện có khoảng “33.000 giáo phái hiện diện
trên 238 quốc gia”
Đó là những khác biệt căn bản giữa Công Giáo và Tin
Lành nói chung. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn hướng về các anh em ly khai này và mong
ước đạt được sự hiệp nhất với họ qua nỗ lực đại kết (ecumenism) mà Giáo hội đã
theo đuổi và cầu nguyện trong nhiều năm qua.
Chúng ta tiếp tục cầu xin cho mục đích hiệp nhất này
giữa những người có chung niềm tin vào Chúa Kitô nhưng đang không hiệp thông
(communion) với Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội duy nhất Chúa Giêsu đã thiết lập
trên nền tảng các Tông đồ.
Lm. PX. Ngô Tôn Huấn
Bài đăng 11/6/2014
0 nhận xét:
Đăng nhận xét