I. Giới thiệu về Khon
Đông Nam Á là một
khu vực có lịch sử phát triển các loại hình diễn xướng từ rất lâu đời. Ở mỗi
quốc gia có nhiều loại hình diễn xướng khác nhau phù hợp và thể hiện được những
nét văn hóa đặc trưng của những quốc gia ấy. Khon, là một hình thức diễn xướng
nổi bật nhất ở Thái Lan- quốc gia hàng đầu về nghệ thuật diễn xướng ở Đông Nam
Á- mang đậm nét đặc trưng về văn hóa của đất nước này.
Có rất nhiều các
định nghĩa khác nhau về Khon:
Khon (tiếng Thái: โขน) là một thể loại kịch múa từ Thái
Lan. Theo truyền thống, Khon chỉ được trình diễn trong triều đình, và những
diễn viên Khon là những người đàn ông đeo mặt nạ, bên cạnh đó là kèm theo
thuyết minh và một bộ quần áo đồng piphat truyền thống. Một biến thể của thể
loại này được trình diễn bởi các diễn viên nữ được gọi là khon phu ying (โขน ญิง). Ở Campuchia, tương tự của Khon
là một phiên bản ít tinh chế gọi là Lakhon Khol.
Khon
là một loại hình sân khấu cổ của Thái hay người ta còn gọi là múa Khon vì trong diễn Khon, múa đóng vai trò chủ yếu. Các diễn viên Khon, khi lên sân khấu diễn thường mang mặt nạ theo các vai mình
đảm nhiệm. Họ múa hoặc làm các động tác minh họa cho cốt truyện do các danh ca
ngồi phía sau sân khấu hát vọng ra, theo nhạc đệm.
“Khon là một hình thức văn hóa dân gian đặc sắc tương đương với loại
hình sân khấu truyền thống Kabuki của Nhật Bản, tuồng, chèo của Việt Nam. Trong
đó, nhân vật nam mang mặt nạ, còn nữ thì trùm khăn có mạ vàng và một dàn nhạc
đệm cho các điệu múa và lời thoại. Khon bắt nguồn từ các điệu múa dân
gian và phát triển thành một loại hình nghệ thuật được biểu diễn và thưởng thức
trong cung đình của nước Xiêm ngày trước”. (trích từ bài viết của CLB VĂN
MINH HỌC ĐƯỜNG, Những điệu múa truyền thống Indonesia và Thái Lan, http://suctrenhanvan.edu.vn/home/201312025909/nhung-dieu-mua-truyen-thong-indonesia-va-thai-lan/)
- Nguồn gốc của từ " Khon " không thật sự rõ ràng, nhưng, có bốn khả năng:
+ Đầu tiên, Khon trong Benguela Kalinin xuất hiện trong các từ
"Kora" hoặc "Khon" (Tiếng Hin-ddi), đó là tên của một trong
những nhạc cụ làm bằng da, hình dạng của nó tương tự như trống. Nó đã được phổ
biến và được sử dụng cho các buổi biểu diễn truyền thống địa phương, người ta
cho rằng Kora là một trong những nhạc
cụ được sử dụng trong hoạt động Khon.
+ Khon
trong Tamil xuất phát từ Koll. Ý nghĩa của nó là về giới tính hoặc mặc quần áo
hoặc trang trí cơ thể từ đầu đến chân, tương tự như cách hoá trang của những diễn viên Khon.
+ Khon
ở Iran đã được bắt nguồn từ chữ "Zurat Khan" có nghĩa là trình diễn con búp bê hay con rối, được sử dụng cho một trong những
buổi biểu diễn tại địa phương, tương tự như khon hiện nay.
+ Khon
trong Khmer được đề cập trong từ điển của người Khmer có nghĩa là để đóng vai.
II. Đặc điểm của Khon
1. Diễn viên
Diễn viên của đoàn Khon thường chia làm bốn loại: một loại
chuyên đóng vai nam, một loại chuyên đóng các vai nữ, có loại chuyên đóng các
vai quỷ và các vai Siman được chuyên môn hóa cao độ trong các vai của mình, cho
nên khi đã tập vai nào rồi, họ không được tập các vai khác. Mỗi diễn viên luyện
tập các vai diễn của mình rất công phu từ lúc mới sáu hoặc bảy tuổi. Vì vậy,
khi diễn bao giờ họ cũng thu được những kết quả tốt đẹp.
Khon,
các diễn viên đều là con cháu vua chúa và quan lại triều đình nên loại hình sân
khấu này rất xa lạ với quần chúng nhân dân lao động.
Trước thế kỷ 19, diễn
viên kịch Khon chủ yếu là đàn ông.
Sau đó, phụ nữ mới bắt đầu tham gia các vai diễn. Ngày nay, Khon
hiện đại chứa đựng nhiều yếu tố từ nai
lakhon bao gồm cho nữ biểu diễn nhân vật nữ mà theo truyền thống được thực
hiện bởi những người đàn ông. Trong khi nhân vật yêu tinh và khỉ vẫn còn đeo
mặt nạ, hầu hết các nhân vật của con người thì không.
2. Mặt nạ
Các mặt nạ muôn màu, muôn vẻ về
kích thước, hình dáng, màu sắc, phù hợp với tính chất quy ước cho từng nhân vật
cụ thể trong khi diễn. Sân khấu Khon
của Thái Lan có tới 30 mặt nạ các nhân vật là người, 100 mặt nạ quỷ... Vì sao
họ lại đeo mặt nạ? Vì, dùng mặt nạ để một diễn viên cũng có thể diễn tả được
các loại thánh thần, ma quỷ, đạo sĩ, quý tộc…
Chiếc mặt
nạ Khon được vẽ rất sắc sảo. Nó là
yếu tố quyết định cho các bộ trang phục lộng lẫy được sử dụng trong hình thức
múa cổ điển mang phong cách của Thái Lan được biết đến với tên gọi là Khon. Điệu múa Khon điển hình thường kể lại một tình tiết nào đó trong sử thi
Ramayana của đạo Hindu. Thế nhưng, hiện nay, mặt nạ Khon cũng được sử dụng như là vật trang trí được trưng bày trong
nhà và thậm chí xuất hiện tại nhiều nhà hàng Thái Lan ở nước ngoài.
Mỗi nét
văn hóa đều mang nét đặc trưng của nó và mặt nạ Khon luôn mang hơi thở của cuộc sống có thể được xem là hình ảnh
tiêu biểu nhất của văn hóa Thái Lan.
3. Các điệu múa
Bên cạnh mặt nạ, múa tạo ra sức hấp dẫn
chính cho Khon, động tác múa của Khon đẹp, hùng dũng, thiết tha, dứt
khoát và gợi cảm. Trong khi diễn, diễn viên chỉ múa chứ không nói hoặc hát,
toàn bộ nội dung và lời thoại do ban đồng ca hát vọng ra từ trong hậu trường,
kịch bản của Khon chủ yếu lấy từ các
tác phẩm Ramakien.
Các động tác múa và kịch Khon gợi cảm, rất đẹp. Múa trong sân
khấu Khon được chú ý, các động tác,
các điệu múa cần phải chuẩn xác, khỏe đẹp, hùng dũng và dứt khoát, đặc biệt
trong cái cảnh chiến đấu. Điểm nổi bật trong kịch Khon là các vai của tạo hình sân khấu này đều do nam đóng, kể cả
các vai nữ.
GS. Hà Văn Cầu giải thích rõ thêm
về trật tự của múa, khởi phát từ trái tim, dâng lên ánh mắt, truyền ra cánh
tay, bốc thành ngọn lửa thiêng và tỏa sáng trên đôi bàn tay, mang ý nghĩa
đốt cháy và hủy diệt mọi phiền não, tới khi toàn thân và cánh tay rung động,
vươn cao thì cái Tiểu ngã hạn hẹp thoát ra khỏi con người để hòa vào cái bao la
của Đại ngã... Khi múa các ngón tay của vũ nữ luôn hướng lên cao, như là ngọn
lửa thiêng bùng cháy...
Có ý kiến cho rằng điệu
múa truyền thống Khon được du nhập từ đất
nước Ấn Độ sang Thái Lan vào khoảng thế kỉ thứ X và được phát
triển từ một nghi lễ tôn giáo của đạo Hindu thành một dạng kịch
mang tính giáo lý ở cung đình hoàng gia Thái Lan. Là một hình thức văn
hóa dân gian đặc sắc tương đương với loại hình sân khấu truyền thống Kabuki của
Nhật Bản, Khon đã được biểu diễn trong nhiều sự kiện xã hội quan trọng. Thế nhưng,
giống như nhiều truyền thống cổ xưa khác, hiện tại loại hình nghệ thuật này
đang phải đấu tranh để được tồn tại.
4. Hình thức sân khấu
Các hình thức sân khấu ở đây rất phong phú, rất đa dạng
nhưng không có một hình thức sân khấu của chung cho mọi giai cấp. Mỗi tầng lớp
trong xã hội đã tìm được các hình thức sân khấu riêng thích hợp với mình. Các
gia đình quí tộc, thuộc dòng dõi vua quan ưa thích kịch Khôn Răbăm, còn những người nhân dân chỉ có thể thưởng thức các
hình thức sân khấu dân gian như Lakhon
múa rối, Sêpa v.v… Chính vì vậy, trong thời gian dài phát triển, sân khấu
Thái Lan đã phân hóa thành hai loại rõ rệt: sân khấu cung đình và sân khấu dân
gian. Sân khấu cung đình về hình thức vô cùng lộng lẫy, xa hoa, trang trí điêu
luyện, chịu ảnh hưởng sâu sắc của sân khấu Ấn Độ. Sân khấu dân gian thì mộc
mạc, giản dị, đậm màu sắc dân tộc.
Một vở diễn Khon trước khi ra mắt công chúng có một sự đầu tư kĩ lưỡng
từ bối cảnh, trang phục, âm nhạc đến từng nhân vật. Vì thế mà một nhà nghiên
cứu sân khấu nổi tiếng từ những năm đầu thế kỷ XIX đã viết một cách trang
trọng: “Sân khấu Khon được trình diễn tại
địa điểm đẹp... trang phục và trang trí vì vậy phức tạp, kỹ lưỡng và thường
được cố gắng làm một cách chính xác nhất. Trang phục thường làm theo lối phục
sức truyền thống cổ điển và không được thay đổi vì nó đã được tìm cho mô hình
đẹp, thích hợp nhất...”
III. Ramakien – vở diễn
phổ biến nhất của loại hình Khon
Ramakien là sử thi
của Thái Lan dựa trên sử thi Ramayama của Ấn Độ. Phiên bản Ramakien đầu tiên của Thái Lan được viết ra trong
thế kỷ XVIII, trong vương quốc Ayutthaya. Tuy
nhiên, hầu hết các phiên bản đã bị mất khi thành phố Ayutthaya đã bị phá hủy
bởi quân đội từ Miến Điện (Myanmar ngày nay) vào năm 1767.
Phiên bản được công nhận hôm nay đã được
biên soạn tại Vương quốc Xiêm La dưới sự giám sát của vua Rama I (1736-1809),
người sáng lập của triều đại Chakri. Giữa những năm 1797 và 1807, Rama I giám
sát các văn bản của các ấn bản nổi tiếng và thậm chí đã viết một số phần của nó.
Rama II (1766-1824) tiếp tục điều chỉnh
phiên bản của cha mình cho sân khấu Khon, một hình thức của nhà hát được thực
hiện bởi vũ công Thái Lan với trang phục phức tạp, diễn viên không có lời thoại
và mặt nạ. Lời thuyết minh từ Ramakien được đọc bởi một điệp khúc từ một bên
của sân khấu. Phiên bản này hơi khác so với một biên soạn bởi Rama I, đưa ra
một vai trò mở rộng để Hanuman, vị thần - vua của loài khỉ, và thêm một kết
thúc có hậu.
Kể từ khi được giới thiệu cho người dân
Thái Lan, Ramakien đã trở thành một phần của văn hóa của đất nước Thái Lan. Các
Ramakien của Rama I được xem là một trong những kiệt tác của văn học Thái Lan.
Nó vẫn được đọc, và được giảng dạy trong các trường học của đất nước.
IV. Liên hệ với các nước Đông Nam Á
khác
* Campuchia:
Dàn nhạc cổ “pinpeat” của
Campuchia chủ yếu là bộ gõ, được trình diễn trong các buổi lễ tại các ngôi chùa
và các dịp tế lễ dân gian khác, cũng như trong các tiết mục văn nghệ. Dàn nhạc
bao gồm “roneat ek” (đàn tre giọng cao), “roneat thung” (đàn tre giọng thấp),
“kongvong tut” và “kongvong thom” (dàn cồng nhỏ và dàn cồng lớn),
“sampho” (trống hai mặt) “skor thom” (1 cặp trống lớn) và “sralai” (một loại
sáo 4 âm vực).
Nghệ thuật múa cổ Campuchia là sự
tái hiện sử thi Ramayana, ca ngợi người anh hùng Vilmiki Brahma, đấng tạo hóa
của Hindu giáo. Nghệ thuật này có từ thế kỷ thứ IV trên khắp lãnh thổ Ấn Độ và Nam Á với ít
nhiều khác biệt ở từng địa phương. Tại Campuchia, sử thi này được chuyển thể
vào âm nhạc và ca múa, được các vũ công hoàng gia trình diễn từ thế kỷ 18 trong
các dịp lễ hội cùng với dàn nhạc cổ “pinpeat”. Trong dân gian, sử thi này cũng
được phổ biến rộng rãi qua hình thức truyền miệng hoặc các loại kịch dân gian
như múa rối bóng (sử dụng một phông lớn để nhận bóng các con rối được chiếu
bằng ánh sáng phía sau phông).
Nghệ thuật
múa cung đình của người Khmer là một biến thể của nghệ thuật múa cung đình Ấn
Độ, có nguồn gốc từ nhân vật apsara trong truyền thuyết Hindu giáo là những
nàng tiên chuyên múa cho các vị thần. Văn
hóa truyền thống của
Thái Lan và đảo Java (Indonesia) cũng chịu ảnh hưởng của âm nhạc và ca múa cung
đình này. Khi trình diễn, các vũ
công apsara mặc trang phục bó sát người màu sáng và váy sampot, mũ hình các
ngọn tháp màu vàng được trang trí vô cùng công phu, trình diễn các động tác múa
chậm và tinh tế cùng với dàn nhạc "pinpeat".
Tại các
làng mạc của Campuchia,
kịch mặt nạ cũng được phổ biến khá rộng rãi, bên cạnh loại hình múa rối bóng
truyền thống. Hình thức ca múa dân gian như múa lam vông cũng rất phổ biến và
thường trình diễn với một dàn trống ngẫu hứng trong các dịp lẽ hội, ngày vui
như: đám cưới, ngày mừng thọ, v.v.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Văn Hóa Nghệ Thuật (http://www.dulichthailan.dulichaz.com/van-hoa-thai-lan/278-van-hoa-nghe-thuat-.html)
2. en.wikipedia.org/wiki/Khon
3.
Hà Đình Cẩn, Ký ức nghệ thuật Sân khấu truyền thống
(http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4342-ky-uc-nghe-thuat-san-khau-truyen-thong.aspx)
4. Minh Thanh (THVL) Bảo tồn nghề làm mặt nạ truyền thống ở Thái Lan 01-11-2010, http://thvl.vn/?p=40000
* Bài Tiểu luận Văn K2011
Trường ĐH KHXH&NV
Khoa Văn học và Ngôn ngữ
> Bài viết được đăng 18/5/2014
0 nhận xét:
Đăng nhận xét