BÀI THUYẾT TRÌNH
Môn:
Văn học Việt Nam 1945 - 1975
Đề tài: Thơ Nguyễn Đình Thi trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp
Nhóm thực hiện: Nhóm 2
– Lớp 1
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS.Võ
Văn Nhơn
Ths.
Nguyễn Thị Phương Thuý
***
1.
Tác giả Nguyễn
Đình Thi
1.1.
Cuộc
đời
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003), người nghệ sĩ tài hoa, là một nhà văn – triết
gia, nhà văn – nghệ sĩ. Là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Sinh
trưởng trong một gia đình thuộc tầng lớp tiểu tư sản, cha là một tri thức Tây
học. Ông quê ở Hà Nội nhưng lại được sinh ra ở
Luang Prabang (Lào). Cha của ông là một viên chức Sở bưu điện Đông Dương, từng
sang làm việc ở Lào. Lên năm tuổi ông cùng bố mẹ trở về Việt Nam. Nhà thơ được cha dạy tiếng
Pháp từ nhỏ nên rất thông thạo ngoại ngữ này. Từ nhỏ ông đã có những thiên bẩm về nghệ thuật như hát hay,
làm thơ và cảm thu âm nhạc tốt. Được gia đình cho học trường Luật để
ra làm quan nhưng mới năm nhất nhà thơ đã bị đuổi học vì tham gia
phong trào học sinh, sinh viên. Năm 17 tuổi, Nguyễn Đình Thi lập gia
đình với nữ sĩ Bùi Nữ Trâm Nguyệt Nga.
Từ
nhỏ ông nổi tiếng là thông minh, ông học rất giỏi đặc biệt là môn Triết học. Mặc
dù còn đang ngồi trên ghế nhà trường nhưng ông đã viết một số cuốn sách như:
"Triết học nhập môn" (1942), "Triết học Căng" (1942),
"Triết học Nitsơ" (1942), "Triết học Anhxtanh" (1942),
"Siêu hình học" (1942) và cùng một số người bạn học bí mật nghiên cứu
chủ nghĩa Mác. Có lẽ chính vì ông có duyên với Triết học nên sau này trong thơ
ca của ông đậm chất triết lí.
Như
đã nói thì ông không chỉ là một người nghệ sỹ mà ông còn là một nhà chính
khách, một trong những cán bộ chủ chốt của Hội Văn hoá Cứu quốc. Là một trí thức
yêu nước, Nguyễn Đình Thi đã sớm trở thành người chiến sĩ cách mạng trung kiên.
Ông đã từng là đại diện của Việt Minh trong Đảng Dân chủ. Hai lần bị kẻ thù bắt,
tra tấn, mua chuộc nhưng ông vẫn một lòng kiên trung với cách mạng. Tháng
7.1945, Nguyễn Đình Thi được đi dự Quốc dân Đại hội tại Tân Trào và được cử vào
Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Từ đó cho đến cuối đời, Nguyễn Đình Thi
liên tục đảm nhận những cương vị quan trọng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật:
Tổng thư ký Hội Văn nghệ, Tổng thư ký Hội Nhà văn, Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc
Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật Việt Nam.
Trong
Lễ tưởng niệm 10 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Đình Thi nhà thơ Hữu Thỉnh đã phát
biểu và nhấn mạnh rằng:
Nhà
văn Nguyễn Đình Thi đến với Văn chương từ chân trời Triết học. Ông là một người
lao động chữ nghĩa miệt mài và nghiêm túc. Ở Nguyễn Đình Thi luôn hiện hữu song
hành con người của cách mạng và nhà văn. Sự nghiệp Văn chương Nguyễn Đình Thi
là sự nghiệp Văn chương tiền chiến với một hệ thống những tác phẩm mang đậm một
cái tôi của con người hoạt động Cách mạng. Văn chương luôn kén chọn con người
nhưng với nhà văn Nguyễn Đình Thi trong ông không chỉ ẩn hiện con người Văn
chương mà ở ông còn có cả con người của âm nhạc sân khấu... Ông xứng đáng là một
Nhà văn hóa tiêu biểu của thời đại Hồ Chí Minh.[1]
1.2.
Sự
nghiệp
Nguyễn
Đình Thi là người hoạt động chính trị, đã từng là sĩ quan quân đội, nhưng nhắc
đến ông là mọi người nghĩ đến một nghệ sĩ đa tài. Ông sáng tác nhạc, làm thơ,
viết tiểu thuyết, kịch, tiểu luận phê bình. Ở lĩnh vực nào ông cũng có những
đóng góp đáng trân trọng.
Thứ
nhất, về thơ ca thì ông đã để lại cho kho tàng thơ ca khoảng 20 bài thơ. Thơ
ông có một phong cách thơ riêng, độc đáo và hiện đại khác với những nhà thơ
đương thời. Đọc thơ ông ta thấy được sự giản dị, phóng khoáng, tự do. Tuy nhiên
sau cái sự phóng khoáng tự do ấy là những nỗi niềm chất chứa là tâm trạng là sự
chiêm nghiệm của ông về con người, xã hội, đất nước. Suốt cả một đời thơ ông
luôn nổ lực để đổi mới thơ ca, ta có thể thấy trong thơ của ông không câu nệ
câu vần, thậm chí là những bài thơ không vần, nhưng nó vẫn giàu nhạc điệu. Và
những cố gắng trong việc cách tân, đổi mới trong thơ ca của Nguyễn Đình Thi, đến
bây giờ thế hệ các nhà thơ trẻ vẫn đang kế thừa và phát huy.
Thứ
hai, về kịch nhiều nhà phê bình đã nhận xét về kịch của Nguyễn Đình Thi đa dạng,
giàu chất thơ, giàu tính triết lý, tưởng tượng, đan xen hài hòa giữa cái thực
và cái ảo khiến cho những tác phẩm của ông mang một dấu ấn riêng biệt, độc đáo.
Kịch của ông không phải là những xung đột giữa con người với hoàn cảnh mà là
xung đột giữa tư tưởng, hệ tư tưởng với nhau. Cũng giống thơ ca, với kịch Nguyễn
Đình Thi cũng cố gắng có những cách tân, đổi mới nhằm mở rộng dung lượng sức chứa
cũng như làm giàu thêm tính văn học, nâng cao tầm khái quát và chiều sâu triết
lý của kịch. Nhiều vở kịch của ông đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng
công chúng như: Con nai đen (1961), Hoa và Ngần (1975), Giấc mơ (1983), Rừng trúc
(1978), Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979), Người
đàn bà hóa đá (1980), Tiếng sóng (1980), Cái bóng trên tường (1982), Trương Chi (1983), và Hòn Cuội (1983
- 1986).
Thứ
ba, về văn xuôi. Chúng ta biết đến Nguyễn Đình Thi với vai trò là một nhà thơ,
nhà văn, nhà viết kịch, nhà lí luận… nhưng trước hết ông là một người chiến sỹ.
Chính vì vậy mà những tác phẩm văn xuôi của ông luôn gắn liền với cuộc sống chiến
đấu của những người chiến sĩ. Đặc biệt trong tác phẩm Xung kích – tiểu thuyết đầu tay thì ông đã tái hiện một cách sinh động
cuộc chiến đấu của một đại đội xung kích trong chiến thắng trung du (1951). Bên
cạnh đó một số tác phẩm như: "Thu đông năm nay" (1954), "Bên bờ
sông Lô" (1957), "Vào lửa" (1966), "Mặt trận trên cao"
(1967), đều là những tác phẩm mang tính thời sự nóng hổi về cuộc chiến đấu anh
dũng của quân dân ta trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Những
tác phẩm ấy đã kịp thời cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
Nhưng không phải vì thế mà nó mất đi giá trị văn chương đặc sắc, lâu dài.
Thứ
tư, về lý luận, phê bình. Bên cạnh vai trò là một người chiến sỹ, một nhà văn,
nhà thơ, nhà viết kịch thì Nguyễn Đình Thi còn đóng vai trò là một nhà lý luận,
phê bình với những những bài lý luận, phê bình sắc sảo với một phong cách rất
riêng. Những bài phê bình của ông mang quan điểm văn nghệ Phát Xít. Đặc biệt tiểu
luận "Nhận đường" của ông đã giúp thế hệ văn nghệ sĩ lúc bấy giờ tìm
ra con đường đi đúng đắn. Trong tiểu luận “Nhận Đường” ông viết: “Văn nghệ phụng
sự chiến đấu nhưng chính chiến đấu đem đến cho văn nghệ một sức sống mới, sắt lửa
mặt trận đang đúc lên văn nghệ mới của chúng ta”.
Ngoài
những vai trò nói trên thì Nguyễn Đình Thi còn đóng vai trò là một nhạc sĩ. Tuy
số lượng tác phẩm ông để lại không nhiều nhưng một số bản nhạc đã đi vào lòng
công chúng, trở thành một kiệt tác âm nhạc vào hàng hay nhất và lớn nhất của âm
nhạc Việt Nam thế kỷ qua. Đó chính là bản nhạc “Một người Hà Nội”.
Nguyễn
Đình Thi, một nhà Chính khách, một người nghệ sỹ đa tài, dù ở lĩnh vực nghệ thuật
nào ông cũng để lại những tác phẩm xuất sắc, những tác phẩm có sức sống lâu bền,
có ảnh hưởng sâu rộng, trở thành niềm tự hào của giới văn học – nghệ thuật nước
nhà.
2.
Cảm
hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Đình Thi
2.1. Tình yêu quê hương đất nước,
tình đồng chí
Trong
cuộc khánh chiến chống thực dân Pháp, đề tài về đất nước được các nhà văn, nhà
thơ khai thác rất nhiều “Việt Bắc” của Tố Hữu, “Tây tiến” của Quang Dũng, “Bên
kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Nhớ máu” của Trần Mai Ninh..., mỗi người một chất
giọng nhưng đề tài chung vẫn là tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi cuộc kháng
chiến khốc liệt nhưng oai hùng. Nguyễn Đình Thi cũng không nằm ngoài qui luật vận
động chung ấy, trước cách mạng ông nói đến tinh thần đấu tranh của dân tộc một
cách kín đáo qua một bài nghiên cứu ca dao, tục ngữ. Đến thời kỳ tiền khởi
nghĩa ông say sưa hát lên “Diệt phát xít”
mà cảm hứng chủ đạo là lòng căm thù cao độ bạn phát xít và lòng nhiệt tình
đứng lên chiến tranh cứu nước. Trong những ngày kháng chiến gian khổ chống thực
dân Pháp, cùng đi với bộ đội, cùng sống với nhân dân, những tình cảm suy nghĩ của
ông về đất nước không sôi nổi bồng bột mà càng thấm sâu sắc, trầm tĩnh, dồi
dào.
Ý
thức dân tộc và lòng yêu nước đã được hình thành rất sớm ở Nguyễn Đình Thi và
được biểu hiện sâu rộng ở nhiều phương diện trong đó có thơ ca. Đất nước vừa
mang vẻ đẹp phóng khoáng của thiên nhiên giàu đẹp.
Trời xanh
đây là của chúng ta
Núi rừng đây
là của chúng ta
Những cánh đồng
thơm mát
Những ngả đường
bát ngát
Những dòng
sông đỏ mặng phù sa
(Đất
nước)
Ở
đây đất nước được quan niệm một cách cụ thể (trời, núi, rừng, con đường, dòng
sông), ý thức con người đang đứng lên từng giờ, từng phút gìn giữ chủ quyền và
lãnh thổ của mình.
Đất
nước còn mang vẻ đẹp của một truyền thống chống giặc ngoại xâm.
Nước chúng
ta
Nước những
người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm
trong tiếng đất
(Đất
nước)
Ngọn
lửa cuộc kháng chiến như thắp sáng thêm cho ông lòng nhiệt thành của người
thanh niên sôi nổi đầy nhiệt huyết khi đã thực sự lăn mình vào cuộc kháng chiến
với tư cách một người chiến sĩ ông đã thấu hiểu những gian khổ trong cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc. Chính tình yêu nước mãnh liệt với đất nước đang bị xâm
lăng đã làm cho đất nước trong ông hiện lên với truyền thống bất khuất “những
buổi ngày xưa vọng nói về”.
Nhưng
cũng không phải vì quá yêu đất nước mà ông cứ vẽ lên cho nước những màu sắc hào
nhoáng. Với cái nhìn hiện thực, có trách nhiệm ông nhìn thấy nỗi đau xót trên đất
nước mình do quân thù tàn phá.
Quê hương biết
mấy thân thương
Bao nhiêu đời
đã chịu nhiều đau thương
Mặt người vất
vả in sâu
Gái trai
cùng một áo nâu nhuộm bùn
(Bài
thơ Hắc Hải)
Hay:
Nước Việt
Nam từ màu lửa
Rũ bùn đứng
dậy sáng lòa
(Đất
nước)
Đất
nước quê hương ấy là đất nước của những người nghèo khó đang đấu tranh và đó là
hiện thực để chúng ta cố gắng xây dựng cuộc đời mới. Mỗi khi nghĩ đến con người
ông trân trọng nghĩ đến những vẻ đẹp chân chất, thật thà với cảnh đời thường,
giản dị.
Đất nghèo
càng chắt chiu yêu quý
Củ mài Yên
Bái sắn Tuyên Quang
Gian khổ đã
nuôi lòng chiến sĩ
Ta yêu bà mẹ
Mán Cao Lan
(Quê
hương Viêt Bắc)
Thiên
nhiên trong thơ của Nguyễn Đình Thi không hề giống với thiên nhiên hùng vĩ
nhưng thơ mộng như trong thiên nhiên Tây Bắc của Quang Dũng.
Sài khao
sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát
hoa về trong đêm hơi
(Tây
tiến, Quang Dũng)
Mà
thiên nhiên của ông là một thiên nhiên “lộng
lẫy”. Màu thời gian với thiên nhiên của Nguyễn Đình Thi như mước rửa ảnh, rất
trong sáng, mạnh mẽ và không kém với bất kì thiên nhiên của một nhà thơ nào.
Quê hương ta
núi sông lộng lẫy
Mỗi lần vùng
dậy lại đẹp hơn
Mỗi tất đất
ngày đêm bóng rẫy
Mỗi lòng như
suối nước trong
(Quê
hương Việt Bắc)
Rất
ngắn gọn, súc tích, mạnh mẽ nó như nói lên quá trình đấu tranh lâu dài và lòng
mong muốn thiết tha của người chiến sĩ từ khi ở “Quê hương Việt Bắc”. Một
điều đáng chú ý là Nguyễn Đình Thi nói đến đất nước thường gắn liền với thủ đô
Hà Nội – thủ đô mà ông đã từng ca ngợi trong một bài hát gợi lên nhiều hình ảnh,
nhiều cảnh như in sâu vào ký ức những chàng trai Hà Nội thưở ấy trong bài hát
“Một người Hà Nội”.
Khi
nhận định về những trang viết của Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh cho rằng Nguyễn
Đình Thi nhìn nhận cuộc sống từ nhiều bình diện, trong chiến đấu, nhất là trước
yêu cầu cấp bách của chiến trường thời cuộc sẽ dễ thiên lệch một chiều:
Có
những nhà thơ chỉ nói đến cái vui chiến đấu và chiến thắng, Nguyễn Đình Thi còn
nói thêm những xót xa, mất mát và có lúc anh nhấn quá nhiều. Nhưng trái lại cần
nói anh hiểu rõ cái giá chúng ta phải trả, hiểu rõ phẩm chất cao quý của đồng
bào, đồng chí chúng ta, hiểu rõ hạnh phúc to lớn chúng ta đã giành được.
Trong
bất kì cuộc đấu tranh, dù chính nghĩa hay phi nghĩ thì những hy sinh mất mát là
điều không thể tránh khỏi. Đó là sự hy sinh thầm lặng của các anh nhưng tinh thần
trong mỗi người lính lại bất khuất không gì tiêu diệt được.
Các anh chết
không tên
Cho nước nhà
sống mãi
Tiếng hát
các anh còn mãi
(Ai
biết tên các anh)
Dù
biết bước ra chiến trường là sẽ chết, là về với lòng đất mẹ, với cỏ cây đất nước,
là mất đi cuộc đời thanh xuân tươi đẹp của đời người. Nhưng họ vẫn xông pha ra
chiến trường, cùng nhau trải qua bao khó khăn như những người anh em. Cảnh tiễn
đưa đồng đội ra pháp trường đến với “lưỡi
lê” của thần chết nhưng họ vẫn “mắt nhìn thẳng điềm nhiên” một cách hiên ngang, bất khuất.
Lưỡi lê tuốt
trần hai bên
Xuống ô tô
các anh đi giữa
Mắt nhìn thẳng
điềm nhiên
(Ai
biết tên các anh)
Bình
tĩnh trước bạo lực của kẻ thù, tâm hồn cao thượng sáng rực đối lập thân thể tiều
tụy trong cảnh đất nước các anh sắp vĩnh biệt, sự bình tĩnh không chỉ ở người mất
mà chủ yếu trong tâm hồn những người sống, họ phải bỏ qua những đau thương ấy để
mà bước tiếp.
Không
những ngợi ca tình đồng chí, đồng đội trong nước mà ông còn nói lên tình đồng
chí quốc tế. Họ chiến đấu bên nhau và chia sẻ với nhau những kỷ niệm vui, buồn
cá nhân và cả nỗi đau mất mát của cả hai dân tộc khi cùng chung một kẻ thù.
Anh lính Việt
Nam mắt nao nao
Nắm chặt tay
anh bộ đội Lào
Khoáng súng
bên vai hai người bạn
Mồ hôi đẫm
áo vượt đèo cao
(Hai
người chiến sĩ Việt Lào)
2.2. Tình cảm lứa đôi
Ngoài
tình yêu quê hương, đất nước thì thơ ca Nguyễn Đình Thi còn thể hiện cả tình
yêu lứa đôi. Nguyễn Đình Thi đã mạnh dạn sáng tạo đặt tình yêu nam nữ ngang với
tình yêu đất nước. Đây là điều mà người ta không dám nói ra, nếu không có sự tự
tin và thành thật:
Anh yêu em như anh yêu đất
nước
Vất vả đau thương tươi
thắm vô ngần.
(Nhớ,
1954)
Câu
thơ đã nói lên được tình yêu của nhân vật trữ tình là “anh” – người chiến sĩ.
Nhân vật có ý thức chính trị sâu sắc, tuy không thật nhiều cảm xúc ướt át, nhưng
lại chứa chan một tình cảm ngọt ngào ẩn sau sự nghiêm túc, trầm tĩnh khi so
sánh tình yêu của nhân vật “anh” với nhân vật “em” ngang tầm với tình yêu đất
nước. Đó là những “vất vả đau thương” và “tươi thắm vô ngần”. Lúc này, cảm hứng
về tình yêu đã quyện lẫn với cảm hứng về Tổ quốc, tình yêu hòa với lý tưởng
cách mạng.
Trong
kháng chiến, người ta ít làm thơ về tình yêu vì họ nghĩ rằng tình yêu sẽ làm
cho con người ta trở nên yếu đuối, mất tinh thần chiến đấu. Thế nhưng, người
chiến sĩ vẫn chiến đấu và vẫn yêu, chiến tranh gay gắt làm bừng lên những bài
ca yêu nước thì cũng không ngăn cản được những tình ca. Nguyễn Đình Thi đã làm
cho kháng chiến và tình yêu trong thơ ca không đối lập nhau mà nhuần nhuyễn, hòa
lẫn với nhau. Nhà thơ đã nhìn từ thực tại cuộc sống của mình, tin tưởng vững
vàng vào cảm xúc của mình, đã mạnh dạn phản ánh những khía cạnh mới của tình
yêu trong chiến đấu.
Nguyễn
Đình Thi gắn tình yêu lứa đôi vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đây chính là một
nét nổi bật trong tình yêu nam nữ của nhà thơ. Hai người yêu nhau tha thiết những
đau đớn tình yêu làm nên cảm xúc trong khung cảnh.
Mưa rơi ướt mái đầu
Mỗi đứa một khăn gói
Ngày nào lần gặp sau
Ngập ngừng không dám hỏi
Chuyến này chắc lại lâu
Đoàn thể gọi.
(Không
nói, 1948)
Đoạn
thơ cho ta thấy hết sự sâu nặng của tình cảm, một sự kìm nén mạnh mẽ đến mức “ngập
ngừng không dám hỏi”. Nhưng biết làm sao khi trong chiến tranh, chính đất nước
cũng còn nhiều gian lao và đau thương, làm sao họ có thể vì tình yêu mà bỏ quên
đất nước được.
Vì
tình yêu gắn liền với nhiệm vụ nên chỗ hai người gặp nhau, khăng khít với nhau
là phần lí tưởng. Có lẽ trong cuộc sống họ còn nhớ một đôi mắt, một bàn tay, một
mái tóc, nhưng họ thấy nên nói nhất và dễ dàng bày tỏ tình cảm nhất trong thời
loạn lạc vẫn là lí tưởng. Lí tưởng của người lính cầm súng, lí tưởng của những
người đồng đội. Cho đến khi chia xa thì cái lí tưởng đồng đội bao trùm luôn cả
tình yêu cá nhân trong mỗi con người họ. Họ trở nên đẹp hơn, một vẻ đẹp lí tưởng
trong thời đại cách mạng.
Nào đồng chí – Bắt tay
Em
Bóng nhỏ
Đường lầy.
(Không nói)
Tư
tưởng tình yêu trong chiến tranh bắt gặp ở những người lính rất mới đó là: Chung
một tấm lòng tin tưởng trong sáng. Trong sáng trong tình yêu lứa đôi, trong
tình yêu đất nước và trong cả tình yêu với cách mạng. Họ gặp gỡ ngay trong lúc
đang bận rộn chiến đấu, và nhớ nhau cũng ngay trong lúc chiến đấu bận rộn.
Anh đang tưởng thấy em
bước vội
Tôi tìm em qua đêm lạnh
xa xôi
Vào lán chật em nhìn anh
mãi
Anh mừng trải bạt cho em
ngồi
Giữa súng đạn ngổn ngang
bờ núi
Đoàn quân nằm ngủ dưới
mây trời
Thì thầm em nói em yêu
quá
Các anh vất vả vì giống
nòi.
(Bài thơ viết
cạnh đồn Tây)
Khi
chia xa, mối quan hệ trong sáng và dễ dàng trao cho nhau trong khung cảnh ly biệt
chính là mối quan hệ đồng chí – mối quan hệ của những người đồng đội với nhau.
Họ chỉ dám bắt tay nhau chứ không dám trao những cái ôm siết chặt. Không dám vỡ
oà những cảm xúc đến khi người yêu khuất dạng ở nơi cuối con đường, nơi cái
bóng nhỏ mất dần trên con đường heo hút, lầy lội. Đó là những người yêu nhau
nhưng lại không thể bộc lộ tất cả những nỗi niềm cho nhau. Họ cố gắng che giấu
cảm xúc chân thực của mình để nhường bước cho kháng chiến của nước nhà.
Tất
nhiên, không phải tình yêu của người chiến sĩ nào cũng có những buổi tiễn biệt
người yêu mình như vậy. Trong một buổi chia tay khác, tình yêu và nhiệm vụ lại
được “anh” nói đến. Chất thơ không vướng bận một chút ảm đạm thê lương mà rất khỏe
khoắn.
Yêu em đời anh bừng sáng
chói
Những sớm chiều dầu dãi
gió sương
Những đêm băng mình
trong đạn khói
Trên nhưng nẻo đường
không biết mỏi
Anh mang em như ngọn đèn
chiếu rọi
Như trái tim anh đập
không ngừng.
(Chia
tay)
Tình yêu làm cho người lính phấn khởi khi chia
tay đi thực hiện nhiệm vụ. Đây không phải là sự xa cách trong tình cảm mà là sự
xa cách không gian. Chính sự xa cách này đã giúp cho họ có thời gian bình tĩnh
để hiểu tình yêu một cách sâu lắng, đúng đắn hơn.
Cách nghìn sông núi vẫn
bên nhau
Em ơi đường chiến đấu
dài lâu
Trong gian khổ vẫn chan
hòa ánh sáng
Đời anh có em như ngày
có nắng
Yêu em anh yêu cả mọi
người.
(Chia
tay)
Đôi
lúc cũng là sự mãnh liệt, thắm thiết trong tình yêu của Nguyễn Đình Thi được
ông thể hiện thành công và rõ nét nhất trong bài thơ Nhớ:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp
lánh
Soi sáng đường chiến sĩ
giữa đèo mây
Ngôi sao trong đêm không
bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến
đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập
bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh
làm người.
Ngôi
sao lấp lánh trong nỗi nhớ của người chiến sĩ khi người ta yêu nhau và kiêu
hãnh làm người. Yêu nhau thắm thiết và trong sáng khi lý tưởng rọi sáng trên đầu
khiến cho những người yêu nhau càng thêm tự hào vì lý tưởng làm con người chân
chính đó.
Yêu xa là thế nhưng họ vẫn lạc quan, tin tưởng vào tình yêu
dành cho nhau:
Đôi
người yêu xa cách lại xa nhau
Yêu nhau nên họ xa nhau
Cho gần lại ngày mọi người
đều sung sướng.
(Chuyện
hai người xa cách, 1945)
Đối với họ xa nhau không có nghĩa là sẽ không bao giờ gặp lại
nhau nữa, và không ngừng hi vọng vào một tương lai tươi sáng:
Anh muốn em sung sướng
suốt đời
Xa nhau hẹn ngày gặp lại.
(Chia
tay)
Tình
yêu trong thơ Nguyễn Đình Thi rất trong sáng, là tình yêu trong xa cách, tình
yêu lý tưởng, tình yêu của những người đã chín chắn và hầu như không có những
giận hờn vu vơ mất thời gian. Thơ của ông thể hiện tư tưởng của ông, cách nhìn
của ông về cuộc sống. Nhưng chính vì quá lí trí, cảm xúc như bị nén lại, chẹn lại,
như chưa thể hiện ra được, đúng như lời nói thì thầm của người giàu tình cảm
nhưng suy nghĩ nhiều mà lại ít nói.
2.3. Nghệ thuật
Thơ
mới đã phá vỡ nhiều khuôn khổ ràng buộc với những quy phạm chặt chẽ của thể thơ
cổ điển trước đây. Thơ mới đã có những bước những dài trong nền văn học Việt
Nam, nó tạo ra một môi trường mới, một điều kiện mới cho người sáng tác. Cách
thể hiện những tâm tư tình cảm trong đời sống cá nhân được khám phá một cách rộng
rãi trong phong trào thơ mới trước đây. Đặc biệt là bộc lộ được cái tôi cá nhân
của mỗi người. Ở một số nhà thơ mới, ngôn ngữ thơ ca của họ thường có
xu hướng mỹ lệ hóa ngôn ngữ, từ ngữ trong thơ thường được trau chuốt
rất cẩn thận như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… Nhưng khi bước sang giai đoạn
kháng chiến thì những nhà thơ đã cùng hoà mình vào dòng nước kháng chiến. Và
Nguyễn Đình Thi đã kịp bắt theo “nhịp thở” thơ ca của thời đại.
2.3.1.
Về ngôn ngữ thơ
Nguyễn
Đình Thi là một nhà thơ kháng chiến. Thơ của ông không sử dụng những lời lẽ mượt
mà, trau chuốt, hay kiểu nhẹ nhàng, bay bổng mà nhà thơ sử dụng những từ ngữ
thuần Việt, mộc mạc, tự nhiên và qua cách dùng từ trong bài thơ cho thấy Nguyễn
Đình Thi là một người rất yêu dân tộc, yêu quê hương đất nước, yêu con người,
yêu từ những cái lớn lao, cao cả đến những cái tầm thường, nhỏ bé nhưng lại gắn
bó với người. Đó là thứ ngôn ngữ rõ ràng, đầy lý tính không hoành tráng nhưng vẫn
đầy ý chí hào hùng của một người lính anh dũng:
Không sợ nguy hiểm
Sợ không biết nhìn
thẳng vào nguy hiểm
Không sợ thiếu niềm
tin
Sợ không nhận ra lẽ
phải để tin…
(Không
sợ và sợ)
Thậm
chí sử dụng nhiều những thán từ, những lời gọi, lời hỏi có tính chất khẩu ngữ:
Nào đồng chí – bắt
tay
Em
Bóng nhỏ
Đường lầy…
(Không nói)
Việc đưa thơ về ngôn ngữ đời sống thường ngày
không phải mới xuất hiện mà xuất hiện đã từ rất lâu. Thế nhưng, không phải đưa
những lời ăn tiếng nói thường ngày vào văn chương mà đặc biệt là thơ mà thành
công. Thế nhưng dưới bàn tay khéo léo của nhà thơ, nghệ thuật sử dụng ngôn từ
được Nguyễn Đình Thi làm nó có thêm một phong cách mới. Ở nó không vướng một
chút dung tục, không một chút tùy tiện mà nhà thơ đã có một sự lựa chọn thực sự
nghiêm túc để ngôn ngữ trong thơ tuy đơn giản, mộc mạc nhưng vẫn len lỏi sâu
vào hồn người.
2.3.2. Về thể loại trong thơ
Trong những sáng tác thơ ca của mình, Nguyễn
Đình Thi chủ động đi theo hướng sáng tác theo kiểu thơ không vần hay còn gọi là
thể thơ tự do. Thời gian đầu kiểu thơ này gặp phải sự phản ứng gay gắt từ những
người làm nghệ thuật. Ngô Tất Tố quan niệm rằng: “thơ phải có vần, thơ không có
vần không gọi là thơ”. Nguyễn Đình Thi tuy không phủ nhận vai trò của vần nhưng
vẫn kiên định ý kiến của mình “không phải hết vần là hết
thơ... Không phải hễ thiếu võ khí này thì trận đánh nhất định thua, thiếu võ
khí ấy trận đánh gay go hơn nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng” và ông
còn quan niệm rằng “Khi làm thơ, thái độ của người làm thơ là ghi lại cảm xúc.
Nếu gặp cảm xúc gặp vần thì hay. Nhưng gặp khi gò bó hãy vượt lên nó đã. Hình
thức nghệ thuật phải tự thân nó ra”. Ông nỗ lực giải phóng thơ khỏi
khuôn vần, chứng minh cho mọi người thấy rằng không cần có vần thơ vẫn mượt mà,
vẫn trữ tình như thế. Mỗi bài thơ của ông là một sự sáng tạo rất đặc biệt, các
thể thơ được ông sử dụng một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt. Hầu như bài thơ
nào cũng được ông sử dụng phối hợp đan xen nhiều thể thơ. Những câu thơ dài ngắn
khác nhau, có những câu thơ chỉ có một chữ nhưng cũng có những câu thơ rất dài.
Bóng cờ bát ngát ngày
vui, nước non reo cười, trên môi người cười
Tiếng cười
Ngày về
( Người Hà Nội)
Hay
có những câu thơ chỉ có một từ :
…Em
Bóng nhỏ
Ðường lầy…
(Không nói)
Dưới
bàn tay tài hoa của Nguyễn Đình Thi thì kiểu thơ không vần vẫn tạo nên khúc nhạc
truyền cảm trong mỗi bài thơ.
2.3.3.
Về giọng điệu thơ
Tuy
sáng tác theo kiểu thơ không vần nhưng thơ Nguyễn Đình Thi vẫn có được cái nhịp
điệu của một bài thơ cần có. Ông thoát khỏi cái nhịp điệu đều đều thường thấy để
đi tìm nhịp điệu bên trong, nhịp điệu của tâm hồn. Câu thơ của ông phóng khoáng
tự do, không câu nệ vần nhưng vẫn giàu nhạc điệu. Mỗi bài thơ đều có chất nhạc
riêng không lẫn được. Khi thì tâm hồn vui phơi phới âm thanh thường vang lên ở
cung bậc cao:
Gió thổi rừng tre phấp
phới
Trong biếc nói cười thiết
tha
(Đất nước)
Khi
cảm xúc trầm buồn sâu lắng thơ ông tự tìm cho mình những thanh trầm buồn:
Tây Bắc rung mình nhớ
người lính trẻ
Sông Đà gầm mãi không
nguôi
(Người tử sĩ)
Hay
những lúc căm hờn uất nghẹn:
Ngoài phố ầm ầm lũ
cướp
Bắt
Khám
Chăng dây
Miệng súng đen sì tua
tủa…
(Đêm sao)
Chính
nhờ những tình cảm giàu chất trữ tình của một người lãng tử, tài hoa ẩn bên
trong người lính hùng tráng đã để lại được những dòng cảm xúc lắng đọng trong
lòng người mỗi khi ngâm thơ của Nguyễn Đình Thi.
2.3.4.
Về hình tượng trong thơ
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp,
hình ảnh xuyên suốt trong thơ ca thời kì này chính là quê hương, đất nước.
Không chỉ riêng nhà thơ Nguyễn Đình Thi mà tất cả những nhà thơ cách mạng thời
kì này luôn lấy hình ảnh đất nước làm trung tâm. Nguyễn Đình Thi đã có hẳn một
bài thơ mang tên là Đất nước để ca ngợi vẻ đẹp, sự hào hùng của đất nước ta. Đó
là những hình ảnh vô cùng mộc mạc, thân thuộc với mỗi con người Việt Nam:
Trời xanh đây là của
chúng ta
Núi rừng đây là của
chúng ta
Những cánh đồng thơm
ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng
phù sa…
(Đất nước)
Đến
cả những bài thơ nói về tình cảm đôi lứa, Nguyễn Đình Thi cũng không sử dụng những
hình ảnh quá cao xa, mỹ lệ. Ông chỉ sử dụng những “chất liệu” mà trước giờ vẫn
hay xuất hiện trên những trang thơ, những trang tiểu thuyết nhưng khi đọc những
câu thơ của nhà thơ Hà Nội tài hoa và lịch lãm này cứ ngỡ rằng như ông là người
đầu tiên nhắc về nó:
Mắt em nhìn dịu dàng
không nói
Mà nói với anh nhiều biết
bao nhiêu
Nhìn mắt em lòng anh như
lửa cháy
Máu anh rộn ràng như suối
chảy
Long lanh ánh mặt trời…
(Chia tay)
Ông
quan niệm rằng: “người làm thơ phải để cho hình ảnh tự nói lên tình ý”. Tuy sống
trong thời chiến, bị chiến tranh tác động đến tư tưởng nhưng cốt cách thanh lịch
của một chàng trai Hà thành vẫn còn thấm sâu trong lối viết của ông khi nói về
cảnh chia tay đầy tình cảm nhưng lại không bi luỵ, dạt dào cảm xúc nhưng lại
không yếu mềm “tiểu tư sản”. Đó là tác phong hào hoa, lịch lãm và đầy mạnh mẽ của
người lính cụ Hồ:
Người ra đi đầu không
ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá
rơi đầy…
(Đất
nước)
Hình
ảnh trong thơ Nguyễn Đình Thi bên cạnh những hình ảnh khỏe khoắn, hùng dũng, chất
phác tự nhiên nhưng cũng không kém phần tinh tế, uyển chuyển. Những yếu tố về
ngôn ngữ, thể thơ, giọng điệu và hình ảnh trong thơ Nguyễn Đình Thi đôi lúc là
phác những cử chỉ thanh lịch của người dân Hà Nội, đôi lúc lại đầy chí khí như
cổ vũ cho người lính và đôi lúc không kém phần mộc mạc, chất phác tự nhiên. Người
lính cụ Hồ đầy hào hoa, lịch lãm này đã thổi thêm một cái hồn mới mẽ cho thơ
kháng chiến thông qua cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện.
3. Tổng kết
Thơ
ca Nguyễn Đình Thi thời kì kháng chiến chống Pháp đã đem lại cho thơ ca Cách
mạng một âm hưởng mới với những cách tân đầy táo bạo. Không chỉ về nội dung
mà còn cả hình thức nghệ thuật. Thơ ông luôn toát lên những tư tưởng
mới của thời đại. Trong bối cảnh kháng chiến chống Pháp, thơ ông luôn
mang cảm hứng về một đất nước kiên cường trong chiến tranh. Bên cạnh
đó là tình yêu đôi lứa luôn hòa quyện với tình yêu Tổ quốc tạo nên
một tinh thần tươi trẻ trong thơ phục vụ cho những năm tháng chiến tranh
khốc liệt. Nguyễn Đình Thi đã dung hòa được cá nhân và tập thể, cá nhân với cộng
đồng, cái chung với cái riêng. Để thực hiện được những điều đó ông đã
thực hiện một cuộc cách tân mang đầy tính sáng tạo. Thực tế phát triển
của thơ ca Việt đã chứng minh những cách tân của ông về nghệ thuật thơ ca là hoàn
toàn đúng đắn và hợp quy luật. Không thể phủ nhận những đóng góp mới lạ
của ông cho thơ kháng chiến, và đặc biệt là có ảnh hưởng sâu sắc đến những
nhà thơ sau này. Từ đó khẳng định vị trí Nguyễn Đình Thi trên thi đàn Việt
Nam hiện đại như một nghệ sĩ tài hoa và tài năng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan
Cự Đệ (2007), Về một cuộc cách mạng trong thi ca: Phong trào thơ mới, NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
2. Hà
Minh Đức - Trần Khánh Thành (2007), Nguyễn Đình Thi về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo Dục, Hà Nội.
3. Hà
Minh Đức (giới thiệu) (2009), Nguyễn Đình Thi toàn tập tập II, NXB Văn học, Hà
Nội.
4. Thuyduongqn
(2009), “Bàn về quan niệm thơ của Nguyễn Đình Thi”, http://blog.tamtay.vn/entry/view/551897/Ban-ve-quan-niem-tho-cua-Nguyen-Dinh-Thi.html.
5. Thao Nguyễn (2013), Nguyễn Đình
Thi Những dấu ấn tài hoa và lịch lãm, NXB Văn Hóa Thông Tin, Sài Gòn.
6. Nhiều tác giả (2007), Tác giả trong
nhà trường Nguyễn Đình Thi, NXB Văn Học, Hà Nội.
7. Nguyễn Đình Thi toàn tập – tập II
(2009), NXB Văn Học, Hà Nội.
8. Nguyễn Đình Thi toàn tập – tập
III (2009), NXB Văn Học, Hà Nội.
9. Lại
Nguyên Ân (2009), Mênh mông chật chội, NXB Tri Thức, Hà Nội.
[1]
http://vanvn.net/news/33/3406-le-tuong-niem-10-nam-ngay-mat-nha-van-nguyen-dinh-thi.html,
Bài, ảnh: Lê Xuân Hiệp - 26-04-2013 02:39:49 PM
* Bài thuyết trình nhóm:
1. Lưu
Thị Như Trang
2. Trương
Thị Quyên
3. Nguyễn
Thị Quỳnh Như
4. Trần
Lê Phương Trinh
5. Phan
Thị Kim Tuyến
> Bài viết được đăng 29/3/2014
0 nhận xét:
Đăng nhận xét