DẪN
NHẬP
Có lẽ khi nhắc đến núi rừng Trường Sơn trong
những năm tháng lửa đạn đã qua ta vẫn nhớ như in câu thơ:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.
Câu thơ
ghi lại bao dấu ấn hào hùng của thế hệ trẻ “ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu quốc”. Hơn
ai hết người lính Trường Sơn - Phạm Tiến Duật
đã khắc họa rõ ràng nhất, ấn tượng nhất cho một thời anh dũng năm nào. Nhiều
bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Trường Sơn như: Nhớ, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe
không kính...Thơ Phạm Tiến Duật làm chúng ta sống lại cái không khí của những
năm tháng hào hùng, gian khổ nhưng hết sức lạc quan của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Thơ ông cũng gieo vào lòng người đọc niềm tin tưởng vào những phẩm
chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong lịch sử.
Chương 1: Giới thiệu chung
1.1 Phạm Tiến Duật (1941-2007)
1.1.1
Cuộc đời
Phạm Tiến Duật sinh 4/1/1941 tại thị xã Phú
Thọ - tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ) trong một gia đình có cha làm nhà
giáo dạy chữ Hán, mẹ làm ruộng.
Năm 1964, ông tốt nghiệp khoa Văn trường Đại
học Sư phạm Hà Nội. Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá Miền Bắc, ông đã hăng hái
lên đường nhập ngũ và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn.
Năm
1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, ông được kết nạp vào
Hội nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, ông
về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam - Phó Trưởng Ban đối ngoại
Hội Nhà văn Việt Nam.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, ông mất tại Bệnh
viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.
1.1.2 Sự nghiệp
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn
thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Phạm Tiến Duật được coi
là "ngọn lửa đèn" của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Mỹ. Nhắc đến Phạm Tiến Duật người ta nhắc ngay đến nhà thơ của
Trường Sơn những năm chống Mỹ.
Thơ ông hồn nhiên, hóm hỉnh, giàu tính lạc
quan với những phát hiện thú vị, đầy chất lính. Nhiều bài thơ của ông đã được
phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường
Sơn tây". Những tập
thơ chính:
·
Vầng
trăng quầng lửa (thơ,
1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm Bài thơ
về tiểu đội xe không kính.
·
Ở hai
đầu núi (thơ, 1981)
·
Thơ một
chặng đường (tuyển tập, 1994)
·
Nhóm
lửa (thơ, 1996)
·
Tiếng
bom và tiếng chuông chùa (trường
ca, 1997)
·
Tuyển
tập Phạm Tiến Duật (in
xong đợt đầu ngày 17-11-2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng).
Các tác phẩm của ông được
nhiều người yêu mến và ông đã dành được nhiều giải thưởng có giá trị: giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ 1969-1970, năm 2001 nhận được giải thưởng nhà nước
về văn học nghệ thuật đợt I, năm 2004 ông được nhận giải thưởng của hội nhà văn
cho tập tiểu luận Vừa làm vừa nghĩ.
1.2 Bối cảnh
Giai đoạn 1954 – 1975 là giai đoạn đất nước ta
đang trong thời kì kháng chiến chống Mĩ gian khó. Trong hoàn cảnh đó nền văn
học những ngày đầu cách mạng đã mau chóng tìm được nguồn cảm hứng mới, hướng
vào thể hiện hiện thực mới. Và trong đó có sự bùng dậy mạnh mẽ của cảm hứng
lãng mạn cách mạng. Ngọn lửa kháng chiến bùng lên khắp đất nước sau ngày toàn
quốc kháng chiến (19/12/1946) đã có sức thu hút đông đảo của những người cầm
bút đến với các khu chiến khu và những làng quê kháng chiến. Đảng đã triệu tập
đội văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất để chiến đấu và phục vụ cho cách mạng và
giành độc lập. Những văn nghệ sĩ của chúng ta có vai trò quan trọng không kém
trong việc cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ nhân dân. Một trong số đó, Phạm Tiến
Duật được đánh giá là một gương mặt độc đáo của văn học Việt Nam 1945 - 1975.
Chương 2: Đặc điểm thơ Phạm Tiến Duật trước
năm 1975
2.1 Hình tượng người lính Trường Sơn
Phạm Tiến Duật đến với đề tài người lính bằng
sự trải nghiệm của người trong cuộc nên những người lính vừa gần gũi, vừa
chân thực, vừa sâu sắc. Họ không chỉ là
con người lý tưởng, con người có hành động cao đẹp mà còn là con người của đời
thường với đời sống nội tâm phong phú. Hình tượng người lính là hình tượng
trung tâm trong thơ kháng chiến của Phạm Tiến Duật (kể cả những tác phẩm viết
sau 1975) nói riêng và thơ trẻ chống Mỹ nói chung.
Vẻ đẹp của người chiến sĩ trong
chiến tranh trước hết ở nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của họ đối với đất
nước và bản lĩnh vượt lên khó khăn. Phần lớn những người lính này còn rất trẻ,
nhưng tuổi đời của họ không ngăn cản ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. Họ
đã cùng lên đường gánh vác nhiệm vụ chung, cả một thế hệ cầm súng, một thế hệ
dàn hàng "gánh đất nước trên vai". Nhận thức được trách nhiệm của mình,
người lính trong thơ Phạm Tiến Duật sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân, "Để lại
trong rừng những gì quý nhất, mất mọi thứ để nhân dân không mất " (Đi trong rừng).
Trong thơ Phạm Tiến Duật, hình ảnh anh
bộ đội lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn gây ấn tượng thật đặc biệt. Giữa bom rơi, chiến
trường cây đổ ngổn ngang,...trên những con đường “Bụi mù trời mùa hanh, nước trắng khe mùa lũ” (Gửi em cô thanh niên xung phong) những đoàn xe vẫn trùng trùng ra
trận. Dù trong hoàn cảnh nào “xe cũng luôn chạy về miền Nam phía trước” và
người lái xe cũng đã thể hiện được sự mưu trí, bản lĩnh của mình trước kẻ thù:
Ta bật đèn pha ô tô trong chớp lòe ánh đạn
Rồi tắt đèn xe quay
Đánh lạc hướng giặc rồi rồi ta lại lái xe đi.
(Lửa đèn)
Có thể nói hình tượng người bộ đội
lái xe được Phạm Tiến Duật tập trung miêu tả rất sâu và Bài thơ
về tiểu đội xe không kính là một
tiêu biểu. Những con người ngang
tàng, khí phách sống trong hoàn cảnh chiến trường trần trụi vẫn lạc quan, ung
dung tự tại:
Không kính không phải vì xe không có kính
Bom
đạn bom rung kính vỡ mất rồi.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Ung dung buồn lái ta ngồi
Nhìn
đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Trên đường Trường Sơn còn có những
người lính khác cũng đang ngày đêm đối diện với kẻ thù. Đó là những người lính
công binh, lính pháo thủ, lính thông tin và lính coi kho:
Những đồng chí công binh lầm lì
Mùi
bộc phá trộn vào trong tiếng hát
(Vầng trăng và quầng lửa)
Đồng chí coi kho ơi...
mười
năm sống xa phố xa làng
tám
năm sống trong núi trong hang
tất
cả riêng chung...
Dành
cho miền Nam tất cả...
(Tiếng cười của đồng chí coi kho)
Những người lính ra chiến trường làm công việc
gì để chiến đấu thì ở họ vẫn mang điểm rất chung của những người lính kháng
chiến chống Mỹ. Tất cả họ đều mang trong mình tình yêu quê hương đất nước, một
bản lĩnh kiên cường để thực hiện trách nhiệm của mình. Và hơn thế nữa họ luôn
lạc quan, yêu đời, luôn tỉnh táo và ngang tàng, điều này chỉ có ở hình tượng người lính của
Phạm Tiến Duật.
2.2 Hình tượng cô thanh niên xung phong
Đến thời kháng chiến chống Mỹ, vai trò của
những thanh niên xung phong trở nên nổi bật và làm cảm động lòng người. Bên cạnh
hình tượng những người lính, hình tượng những cô thanh niên xung phong luôn trở
đi trở lại trong thơ của Phạm Tiến Duật ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc. Họ
là những cô gái xinh đẹp lại vừa anh hùng. Họ mang những nét đẹp trẻ trung, hồn
nhiên là tuổi thanh xuân, là cô gái tràn trề sức sống. Giữa nguy hiểm, đạn bom,
giữa khó khăn khốc liệt, họ vẫn không
quên mình là con gái. Chất nữ tính của họ làm xao xuyến bao người:
Em là
cô bộ đội lái xe
Giặc
nhằm bắn bốn bề lửa cháy
Cái
buồng lái là buồng con gái
Vẫn
cành hoa mềm mại cài ngang.
(Niềm
tin có thật)
Gửi
cô em thanh niên xung phong, niềm tin có thật, cô bộ đội ấy đi rồi,...đó là
những bài thơ tiêu biểu về hình tượng những người con gái trẻ trung đang ngày
đêm hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước. Sự xuất hiện của “những người con
gái ở rừng”, những cô thanh niên xung phong lấp hố bom mở đường khiến những
chàng trai xao động:
Có lẽ
nào anh lại mê em
Một cô
gái không nhìn rõ mặt
Đại đội
thanh niên đi lấp hố bom
Áo em
hình như trắng nhất.
(Gửi em
cô thanh niên xung phong)
Bom đạn, sốt rét không ngăn cản được nụ cười
con gái, hay một chút làm duyên tinh nghịch dễ thương:
Đêm
ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng
cọc rào quanh hố bom
(Gửi em cô thanh niên xung phong)
Phạm Tiến Duật không chỉ nhìn các cô như những
nữ anh hùng, vượt lên gian khổ không ngại hi sinh thân mình mà còn nhìn họ ở những
con người hi sinh nghề nghiệp, hạnh phúc lứa đôi:
Đã sáu,
bảy năm em gái xa nhà
Ba lăm
tuổi chuyện chồng con chưa nói
(Cô bộ
đội ấy đã đi rồi)
Các cô đang ngày đêm thầm lặng lấp
hố bom, phá đá mở đường, chuyển thư, tiếp lương, tải đạn, đem lời ca tiếng hát
cho chiến sĩ... Tình yêu quê hương, đất nước, sự hi sinh cho Tổ quốc ở những
người con gái ấy thực sự là một tình yêu lớn.
2.3 Hình tượng nhân dân
Phạm Tiến Duật viết về những con
người cụ thể: bà mẹ ở Nam Hoành, ông già thuốc bắc...mà ở đó ta có thể nhận ra
hình bóng của nhân dân với những phẩm chất truyền thống: sống gian khổ, giàu
đức hi sinh, sẵn sàng dành tất cả những gì mình có cho đất nước.
Hình tượng nhân dân trước hết là ở
hình tượng người mẹ. Vẻ đẹp của người mẹ được Phạm Tiến Duật cảm nhận trước hết
ở sự đôn hậu, ở tình cảm đằm thắm dành cho các con:
Bà mẹ
thôn Nghi Vạn
Con
tòng quân vắng nhà
Trẩy
cam mỗi buổi sáng
Bồn chồn nhớ con xa.
(Mùa
cam trên đất Nghệ)
Nhưng tình yêu lớn nhất mẹ dành cho
tổ quốc và khi đất nước bị xâm lăng mẹ sẵn lòng để con ra trận và niềm vui của
mẹ là niềm vui của dân tộc:
Giặc Mỹ
thua tơi bời
Thế là
lòng mẹ vui.
(Mùa
cam trên đất Nghệ)
Cuộc kháng chiến làm cho người dân
thay đổi và ai mà ngờ rằng một ông già thuốc bắc ở phố phường Hà Nội bỗng chốc
trở thành chiến sĩ tự vệ ở thủ đô:
Hôm nay bom Mỹ rơi Hà Nội
Ông
già ra trực ngã tư đường
Phòng
thuốc rời nhà, tủ làm ụ súng
Mắt
ông già lấp lánh như gương.
(Ông
già thuốc bắc)
Thực sự cuộc chiến tranh đã đi vào
lòng của nhân dân và Phạm Tiến Duật đã chọn cho mình một góc nhìn riêng để thâm
nhập vào đời sống tinh thần của họ để đồng cảm và để nói về họ. Họ là bộ đội,
là thanh niên xung phong hay những người mẹ sống lặng lẽ nơi quê nhà, họ là
nười làm ruộng, người buôn bán...là bất cứ ai họ đều có chung một lòng yêu
nước.
2.4 Cái tôi trữ tình
Cái tôi trong thơ Phạm Tiến Duật gắn với cái tôi thế hệ,
cái tôi công dân và lại có những sắc thái biểu hiện riêng, mang sắc điệu riêng, độc đáo, hấp dẫn.
Cái tôi
trữ tình trước hết là một cái tôi trẻ trung, tinh nghịch, hóm hỉnh, lạc quan, đậm chất lính. Cuộc sống và sự khốc liệt của chiến tranh được
nhìn qua lăng kính của tuổi trẻ và tình yêu. Trong
con mắt của ông hiện thực chiến trường là nơi “đất rất hồng và người rất trẻ”,
cái tôi đầy lạc quan luôn tràn đầy tiếng cười và tiếng hát hồn nhiên:
-
Nhìn nhau mặt lấm cười ha
ha.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
-
Tiếng cười trêu khúc khích như câu hò.
(Nghe hò
đêm
bốc vác)
-
Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát
Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe
(Vầng trăng và những quầng lửa)
Không chỉ quan tâm đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân tộc, của đất nước mà Phạm Tiến Duật còn luôn suy tư, trăn trở về lẽ mất còn, những giá trị nhân sinh thế sự. Chặng thơ sau chiến tranh, cái tôi trong thơ ông trở nên trầm mặc, suy tư. Những sáng tác nổ i bật của ông sau chiến tranh như: Đường dài và những đốm lửa, Tiếng bom và tiếng chuông chùa (Trường ca) hầu như vẫn viết về Trường Sơn và những con người thời kháng chiến. Cuộc sống thay đổi, cảm hứng và cái tô i trữ tình trong thơ ông cũng ngày càng đi vào chiều sâu, suy
tư, chiêm nghiệm. Cái tôi ấy luôn trong cảm giác cô đơn bơ vơ và chìm sâu vào quá khứ cuộc chiến, và ông nhận ra mình không thuộc những "luật chơi" mới của cuộc đời:
Điều cần biết thì chưa biết
Điều nên quên thì chưa quên. (Luật chơi)
Tuy nhiên, cái tô i trong thơ Phạm T iến Duật không ngã gục trước cuộc sống đời thường. Cái tôi ấy chỉ không còn sôi nổi, ào ạt, mãnh liệt, mà trở nên trầm lắng. Có thể nói, Phạm T iến Duật đã đi trọn vẹn một chặng đường thơ nhưng dù ông viết về hiện thực chiến tranh hay đi trong hoài niệm thì hình tượng cá i tôi trữ tình vẫn là một trong những nhân vật quan trọng tạo nên sự độc đáo trong thơ ông.
Chương 3: Nghệ thuật thơ Phạm Tiến Duật
3.1 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Ngôn ngữ thơ ông là ngôn ngữ đời thường giản
dị, tự nhiên. Ta bắt gặp ngay cái gồ ghề,mộc mạc, thô ráp của từ ngữ:
Không
có kính không phải vì xe không có kính
Bom
giật, bom rung, kính vỡ đi rồi.
(Bài
thơ tiểu đội xe không kính)
Phạm Tiến Duật sử dụng nhiều hư từ,
quán ngữ dùng trong cuộc sống thường ngày. Đó là những phụ từ, quan hệ từ: hơi,
đã, cứ, để , mà, thì, là; những quán ngữ: buồn cười, đáo để , vô
khối, hoá ra, đặc biệt là từ “mà”. Bên cạnh đó ông còn đưa những từ ngữ mang
phong cách khẩu ngữ vào trong thơ và đặt vào đúng vị trí của nó làm cho câu thơ
mang phong cách rất riêng của mình:
Cái miệng em ngoa cho chúng bạn cười giòn
Giọng
Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để.
(Gửi em cô thanh niên xung phong)
Thơ Phạm Tiến Duật là thơ gần gũi với chiến
trường và người lính nên ngôn ngôn ngữ thơ cũng chắc nịch để bật lên cái hồn
nhiên, cương nghị của người lính với cuộc chiến khốc liệt:
Điếc gì
thì điếc
Với
giặc phải tinh.
(Ngãng
thân yêu)
Ngôn ngữ trong thơ Phạm Tiến Duật
không chỉ là ngôn ngữ bình dị, thô ráp, tự nhiên mà đó còn là thứ ngôn ngữ của
sự tài hoa và sáng tạo. Ông sử dụng những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm và hay
tìm đến thủ pháp trùng điệp để thể hiện cảm xúc. Đó có thể là tình cảm hồn
nhiên của chàng lính:
-
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều.
-
Thương em, thương em, thương em biết mấy.
(Gửi em cô thanh niên xung phong)
3.2 Nghệ thuật xây dựng cấu tứ
Nói đến thơ là phải nói đến cảm xúc, làm thơ
phải tìm được tứ thơ. Từ những chi tiết hết sức bình thường và không có tính
thơ Phạm Tiến Duật đã khái quát thành những chi tiết hết sức có ý nghĩa.
Trước hết tứ thơ được xây dựng trên
cơ sở những liên tưởng so sánh. Khảo sát thơ của ông ta thấy hàng loạt những
bài thơ cấu tứ được xây dựng trên cơ sở phát hiện vấn đề qua những mâu thuẫn
trái ngược: Công việc hôm nay, Tiếng bom
ở Seng Phan, Vầng trăng và những quầng lửa, Ngãng thân yêu...
Bên cạnh đó, Phạm Tiến Duật còn xây dựng cấu
tứ bài thơ trên cơ sở những so sánh tương đồng. Các bài thơ này, ông phát hiện
những mối liên quan giữa các sự vật hiện tượng, từ đó làm điểm tựa cho mạch cảm
xúc và suy nghĩ. Chẳng hạn chỉ một tiếng mèo bên bếp lửa quê nhà và một tiếng
mèo ở một làng xa cũng đủ thức dậy cả một miền nhung nhớ nơi người chiến sĩ
trên đường hành quân ra trận:
Nhớ cái
tiếng mèo đến sôi lòng, sôi dạ
Mở
đường lên, phía trước là làng.
(Vô đề
I)
Ngoài việc lập tứ thơ bằng những liên tưởng,
so sánh Phạm Tiến Duật còn thành công trong việc xây dựng những hình ảnh độc
đáo làm điểm tựa cho cảm xúc và ý thơ. Phạm Tiến Duật thích làm thơ về sự thiếu
hụt, hình tượng những chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một ví dụ cụ thể. Hiện thực chiến tranh và
phẩm chất anh hùng lạc quan của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đều được quy
tụ xoay quanh chiếc xe không kính. Hay hình tượng nhân vật Ngãng trong bài thơ Ngãng thân yêu cũng là một hình tượng độc đáo. Ngãng bị
điếc tai nhưng sự thiếu hụt này không phải do bẩm sinh mà nguyên do từ phía kẻ
thù. Ngãng bị điếc nhưng với kẻ thù thì lại rất tinh. Hình tượng độc đáo
ấy gợi ra nhiều điều mà đặc biệt là sự ác liệt của chiến tranh.
3.3
Giọng điệu
Chính giọng điệu thơ đã làm nên cái
đẹp, cái hay cho thơ Phạm Tiến Duật. Trong ấy bao gồm sự hóm hỉnh ngang tàng,
nét tâm tình dịu ngọt hòa quyện với tính triết lý, suy tư.
Trước hết nét đặc trưng mang tính tự nhiên,
vốn có làm nên Phạm Tiến Duật là ở giọng điệu hóm hỉnh, ngang tàng. Sự hóm hỉnh
pha chút tinh nghịch, bông đùa lại trẻ trung, nhiệt thành con người vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ trong đấu tranh mà hoàn thành sứ mệnh. Sự ngang tàng trở
thành bản lĩnh của người lính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Nhìn mọi trải nghiệm của đời lính với
tinh thần lạc quan, tinh nghịch:
Anh đi xuyên ngày, anh đi xuyên tối,
Xe không mui cây cối đến quây quần.
Xe không mui cây cối đến quây quần.
(Một đoạn thư riêng)
Thơ Phạm Tiến
Duật còn có giọng điệu tâm tình, dịu ngọt với các cung bậc cảm xúc nhớ thương,
trăn trở. Đó là sự thán phục, cảm thông kèm theo nỗi nhớ nhung, giải bày tâm sự
gửi cô thanh niên xung phong thật cảm động. Hay những cuộc chia tay có kẻ ở
người đi mang theo niềm ngập ngừng, nuối tiếc, giọng thơ như trầm lắng, tha
thiết đi sâu vào tâm khảm người đọc:
Đến chào anh sáng mai em đi
Như ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay.
Như ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay.
(Cô bộ đội ấy đã đi rồi)
Nhớ
nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm
Căn nhà dột tóc em ướt hết
Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ.
Căn nhà dột tóc em ướt hết
Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ.
( Cô bộ
đội ấy đã đi rồi)
Ngoài
hai giọng điệu nói trên, trong thơ Phạm Tiến Duật còn giọng thơ hướng về sự
chiêm nghiệm với những suy tư trăn trở trước sự mất mát, hy sinh trong chiến
tranh, ngay cả việc diễn tả kỷ niệm về bếp lửa cũng đã khái quát được tinh thần
và sức mạnh về cộng đồng và những giá trị tình cảm thiêng liêng:
Lòng vẫn khát
khao đốt lửa giữa trời
Đến với mọi cộng đồng, đến với mọi màu da trên toàn trái đất
Nhưng chỉ bếp nhà mình là ấm nhất
Bởi yêu em, nhân loại thấy yêu thêm.
Đến với mọi cộng đồng, đến với mọi màu da trên toàn trái đất
Nhưng chỉ bếp nhà mình là ấm nhất
Bởi yêu em, nhân loại thấy yêu thêm.
(Bếp lửa)
Khi chiêm nghiệm về cuộc đời, bằng giọng thơ
triết lý, ông đã bộc bạch những vần thơ
giàu tính suy tư, khái quát thành các quan niệm, quy luật của cuộc đời. Là
người lính mang sứ mệnh lớn lao của dân tộc, ông thầm lặng vẽ nên bức tranh về
một lớp người hy sinh cho hòa bình, no ấm của dân tộc chỉ thông qua hình ảnh
“Cây cúc đắng”:
Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng
Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay.
Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay.
(Đi vào rừng)
Từ ba đặc điểm chính trong giọng điệu thơ của
Phạm Tiến Duật giúp ta có cái nhìn cụ thể, xác thực về phong cách thơ Phạm Tiến
Duật. Từ đó, thêm hiểu hơn về tâm hồn và tài năng của thi nhân, ông đã thành
công trong việc khẳng định được giọng điệu riêng, độc đáo trong thế hệ nhà thơ
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
3.4 Nghệ thuật lựa chọn và sử dụng hình ảnh
Hình
ảnh trong thơ Phạm Tiến Duật là những hình ảnh được đưa vào từ cuộc sống, hiện
thực hiện lên qua những hình ảnh sống động, mang hơi thở của cuộc sống chiến
trường. Đó là hình ảnh những chiếc xe chạy trong lửa đạn, cây cối đổ ngổn ngang
bởi bom đạn, con đường gập ghềnh đầy những hố chông, cuốc xẻng... những vật
liệu, công cụ dùng trong chiến đấu:
Đạn một trăm mili mét xếp ngang
Đạn
cao xạ một trăm xếp dọc
Súng
bắn tỉa để riêng một góc.
(Nghe hò đêm bốc vác)
Những sự việc, sự kiện hàng ngày diễn ra trên
đất nước:
Trong
những tờ trình thủ tướng đọc trong đêm
Còn
có việc hoàn thành bộ thông sử đầu tiên.
(Công việc hôm nay)
Sự lựa chọn những hình ảnh thực, sống động,
không tô vẽ là một cách biểu hiện nhận thức của tác giả đối với cuộc chiến.
Trong thơ ông, cuộc chiến càng ác liệt, gian khổ đến đâu thì con người lại càng
dũng cảm, lạc quan.
Hình ảnh con người được đặt trong mối quan hệ
đối lập với hình ảnh về chiến trường. Nếu cây cối ngả rạp, xe không kính thì
con người chiến sĩ lái xe “có một trái tim”. Nếu bom có dập liên hồi thì người
công binh vẫn ung dung đứng vá đương. Bom mìn nằm dưới mặt đất và cô thanh niên
ngày ngày vẫn phá bom mở đường...
Bên cạnh những hình ảnh bình thường
là những hình ảnh mang tính sáng tạo. Phạm Tiến Duật còn sử dụng những hình ảnh
so sánh để đưa vào trong thơ. Các hình
ảnh so sánh của ông thường bất ngờ, táo bạo, giúp người đọc nhận biết đối tượng
một cách cụ thế, sinh động:
Hố bom dày như lỗ hà ăn chân.
(Qua
cầu Tùng Cốc)
Hố cá nhân ôm trẻ con như tổ ong ôm nhộng.
(Ông
già thuốc bắc)
Ngoài ra Phạm Tiến Duật còn thành
công ở việc xây dựng những hình ảnh mang tính biểu tượng, mang tính khái quát
lớn. Ta bắt gặp nhiều hình ảnh biểu tượng: lửa đèn, vầng trăng - quầng lửa,
người mẹ, những người con gái... Lửa đèn trong bài thơ cùng tên là biểu tượng
cho sức mạnh,truyền thống ngàn năm của dân tộc. Lửa theo Phạm Tiến Duật không
bùng cháy trên bề mặt mà âm thầm cháy và đồng hành cùng con người:
Những ngọn đèn cứ thắp lên
Ngọn
đèn chui vào ống nứa
Cho
em thơ đi học ban đêm
Chiếc
đèn chui vào lòng trái núi
Cho
xưởng máy thay ca vời vợi.
(Lửa
đèn)
Rừng là nơi xảy ra chiến tranh ác liệt,là nơi
gặp gỡ và chia tay, nơi bình yên và dữ dội. Vầng trăng là vầng trăng hiền hòa,
một biểu tượng của sức sống mạnh mẽ. Kèm theo đó là những biểu tượng về sự phá
hủy: quầng lửa, mùi cháy khét, ... mà đặc sắc nhất là những chiếc lá tàn và màu
đen hủy diệt. Tất cả những biểu tượng trên đều khiến người đọc hình dung được
cuộc chiến vô cùng ác liệt và sức sống mạnh mẽ, kiên cường của con người.
KẾT
LUẬN
Phạm Tiến Duật thuộc thế hệ các nhà thơ sinh
ra từ cách mạng, lớn lên trên ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa và trưởng thành
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hiện thực chiến trường, con đường Trường Sơn,
cuộc sống sinh hoạt của những người lính được Phạm Tiến Duật đưa vào trong thơ
hết sức chân thực và sinh động. Hiện thực ấy thông qua hệ thống hình tượng
người lính, hình tượng cô thanh niên xung phong, về nhân dân...Những phẩm chất
tươi trẻ, đầy lãng mạn mà anh hùng của những anh lính lái xe, anh công binh hay
những cô thanh niên xung phong...Những người mẹ, ông già thuốc bắc, tất cả đều
nhận thức về trách nhiệm của bản thân cùng tình yêu quê hương đất nước sâu đậm.
Họ dưới ngòi bút của Phạm Tiến Duật trở nên lung linh, đẹp đẽ khiến mọi người
phải ngưỡng mộ.
Thơ Phạm Tiến Duật là thơ chiến
trường nên chất liệu trong thơ cũng được sử dụng từ những vật liệu trên chiến
trường. Cái tôi trữ tình đậm chất lính. Phạm Tiến Duật đã tạo được dấu ấn riêng
của mình khi xây dựng cái tôi trữ tình bằng ngôn ngữ thơ trẻ trung, hóm hỉnh,
tuy là những hình ảnh mộc mạc bình dị nhưng đậm chất thơ. Giọng điệu ngang
tàng, tâm tình dịu ngọt, hình ảnh chọn lọc có sự sáng tạo, tứ thơ độc đáo cũng
góp phần tăng phần thuyết phục và hấp dẫn trong thơ của ông.
Khép lại
những năm tháng lửa đạn đã qua cũng như khép lại một cánh chim của núi rừng
Trường Sơn đã mỏi , nhà thơ Phạm TIến Duật đã đặt dấu chấm rất đẹp cho cuộc đời
mình.Núi rừng Trường Sơn sẽ nhắc mãi tên người ông và bao đồng đội . thơ ca ông
sẽ mãi là những trang vàng chói lọi cho thế hệ trẻ Việt Nam . ông là "ngọn
lửa đèn" của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn
Đăng Mạnh, Nguyễn Trác, Trần Hữu Tả (1988, 1990), Văn học Việt Nam 1945-1975, Nxb Giáo dục.
2.
Nguyễn
Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân (1987), Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
3.
Đỗ
Trung Lai (1986), Một chặng đường thơ
Phạm Tiến Duật, Tạp chí văn học , số 4.
4.
Nhiều
tác giả(1997), Văn học Việt Nam chống Mỹ
cức nước, Nxb Khoa học Xã hội.
5.
Nhiều
tác giả (1985), Thơ Việt Nam 1945-1985,
Nxb Văn học.
6.
Nguyễn
Thị Thung, Phong cách thơ Phạm Tiến Duật,
Luận văn Thạc sĩ văn học.
* Bài tiểu luận Văn2011
Trường ĐH KHXH&NV - Tp. HCM
Khoa Văn học và Ngôn ngữ
> Bài viết được đăng 19/6/2014
* Bài tiểu luận Văn2011
Trường ĐH KHXH&NV - Tp. HCM
Khoa Văn học và Ngôn ngữ
> Bài viết được đăng 19/6/2014
0 nhận xét:
Đăng nhận xét