Phê bình Nữ quyền


1. Khái quát chung Phê bình Nữ quyền.
Khái niệm “nữ quyền” và “ phê bình Nữ quyền”
Để trả lời cho câu hỏi “Phê bình Nữ quyền” là gì?  nhóm chúng tôi đã thu nhận được những thông tin sau:
 “Khái niệm nữ quyền ( Feminism, women’s right) gắn liền với hoạt động chính trị và xã hội, sinh ra từ ý thức về sự bình đẳng trên phương diện giới. Nói một cách khái quát, khái niệm này chỉ quyền lợi về chính trị và xã hội của người phụ nữ. Thông qua những hoạt động đấu tranh chính trị và xã hội, giới nữ đòi lại những lợi ích chính đáng của mình để đạt đến sự bình đẳng với nam giới”. [1]
  Khái niệm “Phê bình nữ quyền”: “Là một trường phái phê bình văn học thoát thai từ phong trào chính trị xã hội, phát triển mạnh mẽ vào giữa thế kỷ XX, chủ trương xác lập một nền mỹ học, lý luận văn học và sáng tác văn học riêng cho nữ giới”.

2. Các khái niệm cần nắm khi nghiên cứu phương pháp phê bình Nữ quyền
Cũng như các trường phái phê bình khác, phê bình Nữ quyền được xây dựng trên một hệ thống các khái niệm. Các khái niệm cần nắm khi nghiên cứu phương pháp này là: Lý thuyết Nữ quyền (Feminism), Giới tính (Gender), Phái tính (Sex), Chủng tộc (Race) và Giai cấp (Class).
Lý thuyết Nữ quyền (Feminism): Theo các tài liệu cho thấy, lý thuyết Nữ quyền đã có tiền đề từ hàng ngàn năm trước nhưng nó chỉ thực sự phát triển rực rỡ trong điều kiện lịch sử xã hội văn mình, hiện đại. Bên cạnh đó, dưới tư cách là một trào lưu chính trị - xã hội, theo quan điểm của các nhà xã hội học thì chủ nghĩa Nữ quyền được hiểu là “sự ủng hộ tính bình đẳng xã hội của hai phái, dẫn đến sự phản đối chế độ gia trưởng và phân biệt đối xử giới tính”.
Phái tính (Sex) và Giới tính (Gender) là hai khái niệm khác nhau nhưng chúng không hoàn toàn tách biệt nhau.
Phái tính (Sex) là một thuật ngữ sinh học phân chia con người theo đặc điểm sinh học thành hai nhóm phái nam giới và phái nữ giới. Trong đó, Nam giới được quy định mang cặp nhiễm sắc thể XY, còn Nữ giới mang cặp nhiêm sắc thể XX.
Người đưa thuật ngữ Giới tính (Gender) vào nghiên cứu xã hội học là Ann Oakley. Trong đó, vai trò của giới là “những kiểu hành vi, quan điểm, thái độ mà được xã hội trông đợi tạo nên mỗi giới tính. Những vai trò này bao gồm các quyền và các trách nhiệm được chuẩn hóa đối với từng giới tính trong một xã hội cụ thể”. Việc xác định giới và vai trò của giới rất quan trọng trong việc trả lời câu hỏi phụ nữ làm gì và nam giới làm gì? Thông qua những việc làm của họ sẽ đánh giá được vai trò của họ trong từng lĩnh vực cụ thể.
Chủng tộc (Race) là một khái niệm mang tính phân loại dân số dựa trên những khác biệt về đặc điểm sinh học hay hình thể. Đồng thời, nó cũng là một sự phân loại mang tính lịch sử xã hội và đôi khi cả tính pháp lý, được áp dụng với một số dân số có cùng đặc điểm về sinh học, hình thể... hay về cơ bản là có chung nguồn gốc lịch sử xã hội hay chính trị. Chủng tộc thường chỉ một quần thể người hình thành trên một lãnh thổ nhất định, có lịch sử lâu đời. Họ thường có chung đặc điểm về tính di truyền mà dễ thấy nhất là màu da, màu tóc, kết cấu hộp sọ... Trong Phân loại học, khái niệm này được hiểu như là một phân loài.
Giai cấp (Class): Có hai quan niệm cơ bản về phân chia giai cấp trong xã hội.
Quan niệm của Karl Marx (1818-1883): về giai cấp đặt trong mối quan hệ giữa phương thức sản xuất và chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Theo Marx, nguồn gốc của giai cấp phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế. Marx cũng chia giai cấp thành hai giai tầng chính: tư sản và vô sản. Với Marx, phân tầng xã hội được phân chia rõ rệt thành người thống trị (chứa đựng những tư tưởng của riêng mình) và giai cấp bị thống trị (là những người bị áp bức về sức lao động và tiền công).
Quan niệm Max Weber (1864-1920) - nhà chính trị học, xã hội học người Đức - lại kế thừa và tiếp tục phát triển cái nền tư tưởng ấy. Về cấu trúc của giai cấp, Weber cũng chia làm 2 giai cấp chính nhưng trong mỗi giai cấp lại chia thành nhiều giai tầng khác nhau. Thứ nhất, giai cấp tư sản gồm: chủ vốn đầu tư và chủ chi thuê kiếm lời (giai cấp tài sản). Thứ hai, người bán sức lao động có trình độ chuyên môn và khả năng làm dịch vụ, người bán sức lao động có có tay nghề (công nhân kỹ thuật – được gọi là công nhân cổ xanh), người bán sức lao động thô sơ, không có tay nghề (công nhân cổ trắng). Cả ba giai tầng này đều thuộc giai cấp thu nhập (giai cấp làm thuê). Cách phân chia của Weber dựa trên nền tảng là triết học Marx và đã càng hoàn thiện hơn tư tưởng của ông.
3. Lịch sử  và quá trình phát triển của trường phái phê bình Nữ quyền
3.1. Nguồn gốc ra đời
Chủ nghĩa nữ quyền xuất hiện là do sự bất bình đẳng về giới, vì nữ tính từ xưa đến nay luôn bị áp bức về chính trị, và luôn bị xã hội chèn ép, nhận chìm. Bên cạnh đó, về kinh tế thì cam chịu nghèo khổ, về văn hóa bị nam tính tước đoạt (đàn bà con gái ít được đi học), tư tưởng tình cảm rơi vào trạng thái đè nén, ngay cả trong vấn đề hôn nhân – gia đình phụ nữ cũng không có quyền định đoạt.
3.2. Quá trình phát triển của phê bình Nữ quyền
Con đường đi của phê bình nữ quyền trải qua hai giai đoạn, đó là: Giai đoạn hiện đại và giai đoạn hậu hiện đại.
3.2.1. Giai đoạn hiện đại (bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XIX đến trước năm 1970 của thế kỷ XX)
Như những đợt sóng âm ỷ chảy trong lòng đại dương, phong trào nữ quyền luận từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX tại Anh và Mỹ đã bắt đầu manh nha và nó thực sự  phát triển trở thành trào lưu có sức ảnh hưởng lớn tác động mạnh mẽ đến khả năng nhận thức về những vấn đề liên quan đến nữ quyền của nhiều cây bút đương thời. Những nhà phê bình nữ quyền giai đoạn này đã nhận thấy lợi ích tích cực của trào lưu nữ quyền như đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng của phụ nữ, không gian sống của phụ nữ không chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình, con cái, bếp núc... mà ở đây đã có sự thay đổi, người phụ nữ được ra xã hội, hòa mình vào cuộc sống bên ngoài và làm những công việc mà mình yêu thích.
Tác giả: Virginia Woolf (1882 – 1941):
Là nhà văn nữ nổi tiếng người Anh, bà được đánh giá “một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỉ XX”. Trong các sáng tác của bà, tác phẩm luận văn “Một căn phòng riêng” (A Room of One’s Own, 1929) được coi như “sách vỡ lòng” của phê bình nữ quyền.
 “Một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng của riêng mình nếu cô ta muốn viết văn...”. Đây là câu nói trích trong tập luận văn “Một căn phòng riêng” (A Room of One’s Own, 1929), với quan niệm như vậy, tác giả đã cho ta thấy được tầm quan trọng của nữ quyền. Có hai vấn đề được đưa ra trong khái niệm: “ tiền” và “ một căn phòng riêng” đây được xem như là một sự độc lập về mặt vật chất, tài chính và tinh thần của một người phụ nữ “nếu cô ta muốn viết văn”, muốn tìm đến sự  sáng tạo trong nghệ thuật. “Bà không bao giờ chấp nhận một thế đứng nữ quyền, nhưng bà liên tiếp xem xét những vấn đề đối diện những người viết nữ. Bà tin rằng phụ nữ đã luôn đương đầu với những trở ngại xã hội và kinh tế đối với những tham vọng văn học của họ.”
Tác giả: Simone de Beauvoir (1908 –1986):
Là nữ triết gia hiện sinh người Pháp, bà được ví như “ngọn hải đăng”_ đã dùng toàn bộ cuộc đời mình đấu tranh cho nữ giới được tự do, không còn lệ thuộc hay ràng buộc vào nam quyền...
Bên cạnh đó, công chúng còn biết đến bà với tư cách là một nhà văn nữ quyền_ đại diện cho giới nữ.
Sáng tác của bà được thể hiện ở nhiều lĩnh vực: tiểu thuyết, triết học, chính trị, các vấn đề về xã hội...“Giới tính thứ hai”( Le deuxième sexe, 1949) được xem  “tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Nữ quyền”, xuất phát điểm là một nhà triết học, nữ chính trị gia luôn luôn đề cao tính “dân chủ” và quyền “tự do” cho phụ nữ, vì vậy nội dung của tác phẩm “Giới tính thứ hai” lấy người phụ nữ làm trung tâm để nêu lên vấn đề.
Quan niệm: "Người ta không sinh ra làm đàn bà mà đúng hơn trở thành đàn bà...; chính toàn thể nền văn minh đã sản sinh ra tạo vật này... cái được mô tả như nữ tính". (theo bản Anh ngữ năm 1953, trang 267) ["One is not born, but rather becomes, a woman...; it is civilization as a whole that produces this creature... which is described as feminine". (1953, 267)] (Hồ Liễu dịch)
Nhà hoạt động nữ quyền Mỹ Kate Millett ( Mỹ) cho rằng: “Bà ấy đã mở ra cánh cửa giải thoát cho phụ nữ toàn thế giới … Tác phẩm của Beauvoir đã làm thay đổi số phận của hàng trăm triệu người.” – Kate Millett nói.
3.2.2. Giai đoạn hậu hiện đại (1970 – đến nay)
Tác giả: Elaine Showalter ( 1941 -):
Là một nhà phê bình văn học, nhà văn nữ quyền người Mỹ, cô là một trong những người sáng lập học viện phê bình văn học nữ quyền ở Hoa Kỳ. [1].
Bà đã viết tác phẩm “Một nền văn chương của chính mình” (A Literature of Their Own, 1986), trong tác phẩm nhà văn nêu lên quan điểm: “Phụ nữ gạt bỏ cả việc phòng the lẫn việc chống đối – cả hai đều là hình thức lệ thuộc – và hướng kinh nghiệm nữ như nguồn lực của một nền nghệ thuật tự trị, mở rộng phân tích văn hóa nữ quyền thành hình thức và kỹ thuật văn chương”.

Bà đưa ra quan điểm rằng, trong khi không có tính dục đàn bà hay trí tưởng tượng đàn bà cố định hoặc bẩm sinh, nhưng vẫn có một sự khác biệt sâu sắc giữa bản viết của đàn bà với đàn ông, và rằng một truyền thống trọn vẹn về văn viết đã bị sao nhãng bởi những nhà phê bình đàn ông: “cái lục địa mất đi của truyền thống nữ giới dâng lên giống như đảo Atlantics từ biển của văn học Anh vậy”. [2]

 Tác giả Mary Ellmann _ (1921-1989)  một nhà văn, nhà phê bình văn học người Mỹ v

Tác giả  có viết một bài luận: “Nghĩ về phụ nữ” (Thinking about Women, 1968). “một nghiên cứu khái quát có tính chất châm biếm nhẹ nhàng về những khuôn mẫu (stereotypes) của hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của những nhà văn nam”.[3]

 4. Các phương pháp tiếp cận phê bình văn học Nữ quyền
Trong phần này, nhóm chúng tôi có đưa ra những phương pháp để tiếp cận phê bình văn học Nữ quyền:
4.1. Phương pháp đọc kỹ
Dùng phương pháp này nhằm mục đích lọc và phân tích những quan điểm, tư tưởng nữ quyền của lý thuyết phê bình nữ quyền. Thông qua phương pháp này ta có thể hệ thống, tổng hợp những các luận điểm, luận đề theo một hệ thống logic mà khi thông qua những luận điểm này người đọc sẽ có cách tiếp nhận thuận lợi hơn.
4.2. Phương pháp văn - lịch sử
Khách quan nhìn nhận ý thức nữ quyền trong từng bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa cụ thể, đây xem như là bước đánh giá khái quát ưu điểm và khuyết điểm qua từng thời kì và sự thay đổi hệ tư tưởng cùng bước đi của phong trào nữ quyền
4.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được thực thiện dựa trên cơ sở đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các đối tượng khác để làm nổi bật lên nét tương đồng và khác biệt. Ví dụ, so sánh phê bình Nữ quyền với các lý thuyết phê bình khác.
4.4. Ngoài ra còn có những phương pháp nghiên cứu khác như
thống kê, phân loại, tổng hợp…như một công cụ bổ trợ cho việc khảo sát đánh giá tác phẩm.

5. Phương pháp phê bình nữ quyền được vận dụng ở Việt Nam như thế nào?
          Phương pháp phê bình nữ quyền đã hình thành từ cuối thế kỷ XIX phát triển ở thế kỷ XX. Người đặt những viên gạch đầu tiên cho sự khởi phát này là nhà phê bình – lí luận văn học: Phan Khôi (1887-1959)
Thông qua loạt bài Về văn học của phụ nữ Việt Nam (Phụ nữ tân văn, số 1, 2/5/1929), Văn học với nữ tánh (Phụ nữ tân văn, số 2, 9/5/1929), Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh(Phụ nữ tân văn, số 3, 16/5/1929), Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta (Phụ nữ tân văn, từ số 5 đến số 18, năm 1929)… Phan Khôi đã thể hiện thái độ rõ ràng, dứt khóat trong vấn đề đòi lại quyền lợi nữ giới, ông ủng hộ mạnh mẽ tinh thần giải phóng phụ nữ khỏi những bất bình đẳng “ đói nghèo, trí thức, giáo dục”...
Khi nghiên cứu về nữ quyền luận và phê bình văn học nữ quyền phải đề cập đến những nghiên cứu của Hồ Khánh Vân. Năm 2008, tác giả bảo vệ thành công luận án thạc sĩ: “Từ lý thuyết phê bình nữ quyền (Feminist criticism) nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay” . Công trình đã bước đầu giới thiệu về phê bình nữ quyền và sử dụng ánh sáng của phê bình nữ quyền để soi chiếu các sáng tác của các tác giả nữ từ thập niên 1990 đến gần đây.
Năm 2011, tác giả tiếp tục thực hiện công trình“Lý thuyết nữ quyền trong văn học: Lịch sử, quan niệm và phương pháp” (Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia TP.HCM). Thông qua công trình nghiên cứu của mình, tác giả lý giải những quan niệm, phương pháp đặc trưng văn học nữ quyền, giúp người đọc tiếp nhận một cách có hệ thống những khái niệm, đối tượng, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu phê bình nữ quyền. Đây thật sự là một công trình nghiên cứu có giá trị giúp ích rất nhiều cho việc sinh viên khi tiếp cận phê bình nữ quyền bằng một phương pháp chuẩn.

6. Các tác phẩm có thể vận dụng phương pháp phê bình Nữ quyền
Theo ý kiến của nhóm chúng tôi, có khá nhiều các tác phẩm có thể vận dụng phương pháp này. Ở đây, để thuận lợi cho việc tiếp nhận phương pháp, chúng tôi chọn những tác phẩm văn học Việt Nam để khảo sát qua việc vận dụng phương pháp phê bình nữ quyền.
Ở Việt Nam các tác phẩm có thể sử dụng phương pháp phê bình nữ quyền là rất lớn, nhưng vì thời lượng không cho phép nên trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ xin được đề cập đến hai tác phẩm, đó là bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương và truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư.
Ở phương Tây, năm 1929 Virginia Woolf với tác phẩm ''một căn phòng cho riêng mình'' đã gây nên một chấn động mạnh mẽ đối với phong trào nữ quyền thì ở Việt Nam 100 năm trước đó đã có Hồ Xuân Hương với những vần thơ sôi nổi, đầy nhục cảm đã cất cao tiếng nói bênh vực cho người phụ nữ. Trong một xã hội mà người ta coi ''nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô'' , thân phận người nữ luôn bị rẻ rúng, không có giá trị thì những vần thơ của bà Chúa thơ Nôm như một dòng nước mát lành đầy sảng khoái tưới lên cái mảnh đất khô cặn vì những giáo lí của cửa Khổng sân Trình. Ta hãy nghe nàng Xuân Hương nói
''thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son''
''thân em'' là chiếc bánh trôi nước mà cũng chính là thân người phụ nữ xinh đẹp, trắng trong. Dẫu phải chấp nhận cuộc sống ''bảy nổi ba chìm'' như một phận số không thể thay đổi, dẫu không tự định đoạt được vận mệnh của mình nhưng người phụ nữ vẫn mãi giữ mình trung trinh, thanh sạch, không bao giờ bị những bụi bặm của  xã hội vấy bẩn, như hoa sen kia gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thời thế đã thay đổi, lịch sử đất nước đã sang trang mới, người phụ nữ bây giờ đã có chỗ đúng vững vàng hơn. Thế nhưng đâu đó trên mảnh đất hình chữ S này vẫn có những phụ nữ mang trong mình một cuộc sống lênh đênh như những cọng cỏ lông chông bay trong gió. Đọc Nguyễn Ngọc Tư đôi khi chúng ta không thể kiềm chế mình mà thảng thốt: tại sao?
Những người phụ nữ trong cánh đồng bất tận, họ bất hạnh vì chính những thiên tính mẫu nhi của con người họ. Bất hạnh vì khao khát một cuộc sống đủ đầy, vì không chịu đựng được chiếc túi quanh năm '' mỏng lép kẹp''. Họ bất hạnh vì khao khát hạnh phúc lứa đôi, vì không chịu đựng nổi những người đàn ông ''thích uống say'', ''thích dùng tay chân để tỏ rõ uy quyền'', ''có khi cả đời không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thỏa mãn, rồi quay lưng ngủ khò''...
Thế nên vùng lên, sẵn sàng chấp nhận thử thách ở phía trước để có được tình yêu hạnh phúc là tâm thế chung của những người nữ trong thế giới của Cánh đồng bất tận. Và phải chăng chính cái tâm thế đó đã làm nên âm hưởng nữ quyền chủ đạo trong tác phẩm.
VII. kết luận

1.Tài liệu:
1.1 Về tài liệu tiếng Việt:
Năm 2003, Luận án thạc sĩ chuyên ngành văn học của tác giả Nguyễn Thị Hiếu Thiện: “Con đường tới tự do của người Mỹ da đen trong nghệ thuật tiểu thuyết của Toni Morrison”(ĐH Sư Phạm TP HCM) là công trình đầu tiên nghiên cứu về các tác phẩm của Toni Morrison theo hướng tư tưởng. Đặt chủ đề “tự do và nô lệ” làm trọng tâm, công trình đã có những khảo sát sâu và độc đáo về các vấn đề như: những chấn thương tinh thần do chế độ nô lệ để lại trong tâm thức người Mỹ da đen, mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, cuộc hành trình đi tìm cái tôi mất mát… xung quanh các tác phẩm Người yêu dấu (Beloved), Mắt biếc (The Bluest Eye), Bài ca Solomon (Song of Solomon).
Năm 2009, luận văn thạc sĩ “Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại” được tác giả Đường Thị Thùy Trâm bảo vệ thành công tại trường Đại học Sư phạm TP HCM. Công trình đã có những kiến giải công phu và giá trị về việc nghiên cứu tác phẩm Người yêu dấu (Beloved) dưới góc nhìn huyền thoại học như lý giải hình ảnh “người mẹ vĩ đại” như một cổ mẫu, khám phá và lý giải motif “hiến tế” và “tái sinh” trong tác phẩm…
Và gần đây nhất, vào ngày 27.06.2012, sinh viên Trần Thị Thanh Hương đã bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp “Tiểu thuyết Mắt biếc của Toni Morrison từ góc nhìn lý thuyết nữ quyền” tại trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TPHCM. Đề tài đã làm rõ những vấn đề về thuyết Nữ quyền da đen và phê bình văn học Nữ quyền da đen. Bên cạnh đó, đề tài còn đi sâu vào ý thức Nữ quyền nhìn từ nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau, đồng thời, tác giả cũng đã đi sâu, phâ nti1ch về một lối viết nữ trong tác phẩm Mắt biếc của Toni Morrison.
          Bên cạnh đó, nhóm chúng tôi còn tìm thấy những tài liệu nghiên cứu liên quan đến Phê bình Nữ quyền nói chung và thuyết Nữ quyền nói riêng như:
          Công trình Lý thuyết văn học Hậu hiện đại của tác giả Phương Lựu xuất bản năm 2011(NXB. ĐH Sư phạm, Hà Nội). Công trình là một quyển sách “cẩm nang” về lý thuyết văn học hậu hiện đại khi có những giới thiệu, phân tích và khái quát rất logic về văn học hậu hiện đại. Trong Chương tám: Phê bình nữ quyền, Phương Lựu đã chỉ ra những tiền đề của lý thuyết nữ quyền, khái quát sự phát triển của Phê bình nữ quyền và giới thiệu các loại hình Phê bình nữ quyền luận mà đặc biệt là phê bình Nữ quyền Da đen. 
Ngoài ra, còn có những bài viết về Phê bình nữ quyền đăng rải rác trên các tạp chí, các trang báo mạng như: Văn học nữ tính của tác giả Lưu Tư Khiêm (Phan Trọng Hậu lược dịch) đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 2, tháng 1-2006), Phê bình nữ quyền của tác giả Lý Lan (ww.nt-foundation.com), Phụ nữ chúng tôi phải viết của Trịnh Thanh Thủy (damau.org)… tất cả đều là những nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho nhóm chúng tôi khi nghiên cứu về trường phái phê bình này.

1.2 Về tài liệu tiếng Anh:
          Theo như các tài liệu mà nhóm chúng tôi tìm hiểu thì phê bình Nữ quyền được quan tâm rất lớn tại các nước phương Tây, đặc biệt là Anh và Mỹ. Nhưng trong một số hạn chế, nhóm chúng tôi chỉ có thể tiếp cận các tài liệu này bằng các phương tiện như internet, phương tiện thông tin đại chúng.
          Đầu tiên, chúng tôi đã tìm thấy bài viết của Ann Ducille với nhan đề: Về những điển phạm: Lịch sử nguồn gốc và sự phát triển của lý thuyết nữ quyền da đen (On canons: anxious history and the rise of black feminist literary studies).Công trình đã khái quát phê bình Nữ quyền Da đen từ khi nó còn là một trào lưu tư tưởng nữ quyền cho tới lúc được hệ thống hóa với tư cách là một loại hình phê bình văn học.
          Và một công trình khác, nghiên cứu tác phẩm theo hướng Nữ quyền là Tiểu thuyết của Toni Morrison (Toni Morrison’s Fiction) của tác giả Jan Furman. Qua sáu tác phẩm (The Bluest Eye, Sula, Tar Baby, Beloved, Jazz, Song of Solomon) và một truyện ngắn (Playing in the Dark), tác giả đã nêu bật được vai trò của những nhân vật nữ và tính nữ trong tiểu thuyết của Toni Morisson.

1.3 Về tài liệu trên mạng:
Ở đây, nhóm chúng tôi đã tìm thấy bài viết về Chủ nghĩa Nữ quyền, về nguồn gốc ra đời và các bước phát triển của Chủ nghĩa Nữ quyền. Bên cạnh đó, tác giả bài viết cũng đã nêu bật lý do tại sao chủ nghĩa Nữ quyền lại hoạt động mạnh mẽ trong hoạt động Văn học cũng như tìm hiểu về phong cách trần thuật Nữ giới. Và cuối cùng, tác giả đã dành trọn một chương để đưa ra ý kiến, suy nghĩ cá nhân về chủ nghĩa Nữ quyền qua các giai đoạn lịch sử.

          Với bài viết Các nhà văn nữ và một số thể loại hư cấu trong văn học phương Tây và Việt Nam hiện đại”, PGS. TS Đặng Thị Hạnh (Khoa Văn học, trường ĐHKHXH & NV – ĐHQG Hà Nội) đã khái quát về tình hình vận dụng loại hình phê bình Nữ quyền ở các nước phương Tây nói chung và Việt Nam hiện đại nói riêng. Đồng thời, bà cũng nhấn mạnh tình hình giao lưu cũng như tiếp nhận về một lối viết nữ trong xã hội hiện đại ngày nay.

1.3.3 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1449&rb=0508

          Với bài viết “Kate Millet, nhà nữ quyền lưng chừng” (do Võ Tấn Phong dịch), tác giả bài viết đã nêu ra rằng, “những đoạn văn chương dâm tục của Norman Mailer, Henry Miller, D. H. Lawrence và Jean Genet, mà Millett dùng để minh họa cho việc đàn ông dùng tình dục để làm hạ thấp và làm giảm giá trị của phụ nữ, "Chính Trị Tình Dục" rất khô khan. Millett tấn công thứ tình cảm lãng mạn ("một phương tiện vận động tình cảm mà giống đực được tự do khai thác"), kêu gọi chấm dứt việc cưới gả một chồng một vợ và cấu trúc gia đình ("thiết chế chính của chế độ phụ quyền") và đề ra một cuộc cách mạng tình dục để "đem lại sự chấm dứt của chế độ phụ quyền".

Xuân Quỳnh “ sóng”
Nguyễn Ngọc Tư “ cánh đồng bất tận”
Năm 2009, luận văn thạc sĩ “Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại” được tác giả Đường Thị Thùy Trâm bảo vệ thành công tại trường Đại học Sư phạm TP HCM. Công trình đã có những kiến giải công phu và giá trị về việc nghiên cứu tác phẩm Người yêu dấu (Beloved) dưới góc nhìn huyền thoại học như lý giải hình ảnh “người mẹ vĩ đại” như một cổ mẫu.
Năm 2008, công trình luận văn thạc sỹ “Từ lý thuyết phê bình nữ quyền (feminist criticism) nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay”  của tác giả Hồ Khánh Vân đã bảo vệ thành công tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu bước đầu giới thiệu trường phái phê bình nữ quyền và vận dụng lý thuyết nữ quyền luận để phân tích một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả nữ từ 1990 đến nay.
          Công trình Lý thuyết văn học Hậu hiện đại của tác giả Phương Lựu xuất bản năm 2011(NXB. ĐH Sư phạm, Hà Nội). Công trình tập hợp về phương diện lý thuyết văn học hậu hiện đại cũng như đánh giá hệ thống hóa lý thuyết văn học thờ kì hiện đại nhằm giúp độc giả có cái nhìn rõ khi tìm hiểu và phân biệt được khái niệm “ Chủ nghĩa hiện đại và Chủ nghĩa hậu hiện đại”. Bên cạnh đó, công trình còn có những giới thiệu, phân tích và khái quát “ Những tiền đề lý thuyết của Phê bình nữ quyền”. Bài viết trong “chương tám: Phê bình nữ quyền”, tác giả đã chỉ ra những tiền đề của lý thuyết nữ quyền, khái quát sự phát triển của Phê bình nữ quyền và giới thiệu các loại hình Phê bình nữ quyền luận mà đặc biệt là phê bình Nữ quyền Da đen. 

VỀ TÀI LIỆU TIẾNG ANH
Theo như các tài liệu mà nhóm chúng tôi tìm hiểu thì phê bình Nữ quyền được quan tâm rất lớn tại các nước phương Tây, đặc biệt là Pháp, Anh và Mỹ. Nhưng trong một số hạn chế, nhóm chúng tôi chỉ có thể tiếp cận các tài liệu này bằng các phương tiện như internet thông qua các bản dịch của các dịch giả Việt Nam, tuy nhiên chúng tôi cũng đã cố gắng tìm những bản viết bằng tiếng Anh
Bài viết “Phê bình nữ quyền của tác giả  Raman Selden” được dịch giả Hồ Thị Dương Liễu ( học viên cao học K2010 trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn tp. HCM)

Con đường chính thống hóa lý thuyết – phê bình nữ quyền


Ngoài ra, còn có những bài viết về Phê bình nữ quyền đăng rải rác trên các tạp chí, các trang báo mạng như: Văn học nữ tính của tác giả Lưu Tư Khiêm (Phan Trọng Hậu lược dịch) đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 2, tháng 1-2006), Phê bình nữ quyền của tác giả Lý Lan (ww.nt-foundation.com), Phụ nữ chúng tôi phải viết của Trịnh Thanh Thủy (damau.org)… tất cả đều là những nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho nhóm chúng tôi khi nghiên cứu về trường phái phê bình này.

* Bài thuyết trình Văn K2011
Trường ĐH KHXH&NV
Khoa Văn học và Ngôn ngữ


> Bài viết được đăng 18/5/2014
Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét