Alain Guillemin
(TS. Viện Nghiên cứu
Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp)
Bản dịch của Ngô Tự Lập
Tháng 5 năm 1941, chính quyền thực dân dựng
một đài tưởng niệm tại một góc nhỏ phía Đông Bắc hồ Hoàn Kiếm, cạnh đền Bà
Kiệu. Đó là một tấm bia đá cao 1,7m, rộng 1,1m, dày 0,2m, trên có khắc, bằng
các thứ chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp, công đức của linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes.
Tin này được tờ «Tân
Tri», số 13 Tháng 6 năm 1941, thông báo như sau: "…Ông
Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà Thành trong lễ khánh thành đài kỷ
niệm ông. Buổi lễ được tổ chức trong bầu không khí trang nghiêm và cảm
động…Ngày nay, chữ Quốc ngữ được coi là rường cột của tiếng ta, đó là lý do vì
sao chúng ta không thể không cảm ơn chân
thành người đã phát minh ra nó, ông Alexandre de Rhodes." (Le courrier du Viêt Nam)
Tuy nhiên, sự tôn vinh đối với giáo sĩ dòng
Tên nổi tiếng không thể là thứ cây có thể che rừng. Ngoài Alexandre de Rhodes,
điều cần phải làm rõ là vai trò của những người truyền giáo đối với ngôn ngữ
học. Thật vậy, ở Việt Nam, cũng như ở phần lớn các nước họ đến truyền giáo, họ
không chỉ giới hạn vào việc thuyết giảng và phiên dịch lời Thiên Chúa. Họ còn lập nên những cột mốc quan trọng không thể bỏ qua
trong lĩnh vực nghiên cứu ngữ pháp và ngữ nghĩa tiếng Việt.
Xin trở lại với Alexandre de Rhodes. Ông có "phát minh" chữ Quốc ngữ hay không? Cho
dù vai trò của ông là nổi bật đi chăng nữa,
chúng ta cũng phải thấy rằng ông chỉ là một mắt xích trong một sợi xích. Chúng
tôi sẽ chứng minh luận điểm của mình theo ba phần. Sau khi điểm lại một cách
vắn tắt cuộc đời và những chuyến đi của Alexandre de Rhodes, chúng tôi sẽ liệt
kê những đóng góp chính của ông qua tác công trình từ điển học cùng vai
trò của những người tiền bối, những linh mục dòng Tên Bồ Đào Nha. Phần thứ ba
sẽ phân tích quá trình phổ biến của chữ Quốc ngữ với tư cách một hệ thống ký âm
tiếng Việt.
1. Một kẻ phiêu du đa
ngữ
Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon, ngày
15 tháng 3 năm 1591, trong gia đình một nhà buôn tơ lụa gốc gác từ làng
Calatayud xứ Aragon. Những người Marranos này chạy trốn Toà án dị giáo và đến tị
nạn tại Avignon, khi đó là đất của Giáo Hoàng và tiếp nhận người Do Thái. Giống như nhiều người đứng đầu các gia đình Do Thái
cải đạo sang Công giáo, cha của Alexandre đổi họ từ Rueda thànhRode,
sau thành de Rode và cuối cùng là de Rhodes. Năm
1609, khi 18 tuổi, Alexandre de Rhodes đến Roma. Ngày 14 tháng 4 năm 1612 ông
gia nhập Compagnie de Jésus (Hội Ái hữu Thiên Chúa).
Tại đó, ông trau dồi kiến thức về các ngôn
ngữ cổ (Latin, Hy Lạp và Do Thái), học tiếng Italia và toán học.
Ông dự định đi truyền đạo ở Nhật Bản, và tháng
10 năm 1618 rời Roma đến Lisbon, bấy giờ là cửa biển chính vào châu Âu của
những người Đông Ấn. Trong khi
chờ lên đường, ông học tiếng Bồ Đào Nha. Ngày 04 tháng 4 năm 1619, ông khởi
hành trên chiếc tàu "Thánh Thérèse" để đến Goa. Trong số bốn trăm hành khách trên tàu còn có những nhà
truyền giáo dòng Tên khác như Jérôme Majorica, tác giả nhiều văn bản Kitô giáo
viết bằng chữ Nôm (thứ chữ Việt lấy cảm hứng từ chữ tượng hình Trung Quốc), nhà
truyền giáo ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ.
Con tàu vượt qua mũi Hảo Vọng ngày 20 tháng
7 năm 1619 và đến đảo Goa ngày 9 tháng 10 cùng năm. Ở đó, Alexandre de Rhodes
được tiếp đón bởi các giáo sĩ dòng Tên đã định cư ở Goa từ khi Francis Xavier
cập bến vào năm 1542. Ông lưu
lại hai năm rưỡi tại Goa và Salsette, nơi ông bị ốm nặng. Tại đó, ông gặp giáo sĩ dòng Tên người Pháp Etienne de la Croix
người đã dạy ông ngôn ngữ địa phương: tiếng Kanara hay còn gọi là
Canarin. Ngày 12 tháng 4 năm 1622, ông lại tiếp tục hải trình đến
Nhật Bản. Ông đến Malacca ngày 28 tháng 7 năm 1622 và phải chờ đợi gần chín
tháng trước khi lại có thể tiếp tục ra khơi.
Ngay sau khi đến Macao ngày
29 tháng 5 năm 1623, ông bắt đầu học tiếng Nhật. Nhưng do các cuộc đàn áp Kitô
giáo ở Nhật Bản tăng lên và nước này ngày càng bế quan tỏa cảng kể từ năm 1612,
cấp trên quyết định chuyển ông đến một xứ khác: Đại Việt, nơi các cha cố
Francesco Buzomi (1576-1639) và Diego Carvalho đã lập một hội truyền
giáo (mission) từ năm 1615 tại Turan (Đà Nẵng).
Sau khi trải qua 18 tháng giữa Ma Cao và
Quảng Đông, de Rhodes cùng năm nhà truyền giáo dòng Tên khác, trong đó có
Gabriel de Matos, cập cảng Faifo (Hội An), một hải cảng lớn của phần đất mà ông
gọi là Cochinchine (Nam Kỳ), ở phía nam Turan. Đây là một trung tâm kinh tế lớn, giao thương với Nhật
Bản và Bồ Đào Nha. Ông đến vào tháng 3 năm 1626 và trong vài tháng
đã học tiếng Việt đủ để giảng đạo. Ngày 12 tháng 3 năm 1627, cùng giáo sĩ dòng
Tên Pedro Marques, Alexandre de Rhodes đến Bắc Bộ. Ông được bề trên cử đi giúp
đỡ giáo sĩ dòng Tên người Ý Giuliano Baldinotti vốn gặp khó khăn trong việc học
tiếng Việt. Nhà thờ đầu tiên ở Bắc Bộ được xây
dựng gần Thanh Hóa. Tuy nhiên, việc giảng đạo chẳng bao lâu bị gián
đoạn vì xung đột, lý do là các nhà truyền giáo phản đối chế độ đa thê và
giới quan lại lan truyền tin đồn rằng họ là gián điệp. Alexandre de Rhodes bị quản thúc tại Hà Nội vào tháng
Giêng 1630, sau đó bị Chúa Trịnh Tráng, dưới áp lực của các vương phi, trục
xuất vào tháng 5. Không thể quay lại Nam Kỳ, nơi còn bất lợi hơn đối với các
Kitô hữu, bởi họ có thể bị nghi là gián điệp của Đàng Ngoài, Alexandre de
Rhodes trở lại Macao, nơi trong vòng gần 10 năm ông dạy thần học luân lý.
Giữa 1640 và 1645, de Rhodes dẫn đầu bốn
chuyến đi đến Nam Kỳ (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1640; từ tháng 12 năm 1640 đến
tháng 7 năm 1641; từ tháng 1 năm 1642 đến tháng 9 năm 1643; từ tháng 1 năm 1644
đến tháng 7 năm 1645). Hầu hết thời gian, ông phải làm việc bí mật vì sự thù
ghét của chính quyền địa phương. Bị
trục xuất khỏi Nam Kỳ ngày 3 tháng 7 năm 1645, ông đến Macao hai mươi ngày sau
đó. Để xin thêm trợ giúp của Tòa Thánh, Hội
truyền giáo Châu Á (Missions d'Asie) đề
nghị Alexandre de Rhodes đi Roma. Trước khi đi, ông dạy tiếng An
Nam cho những người kế nhiệm là Carlo della Roca và Metello Sacano.
Rời Macao ngày 20 tháng 12 năm 1645 cùng
một Kitô hữu trẻ người Trung Quốc, mãi đến ngày 27 tháng 6 năm 1649, sau nhiều
trắc trở ông mới đến được Roma. Tại Roma, ông mô tả cho Vatican tình hình của
Giáo Hội ở Nam Kỳ và Bắc Kỳ và cầu xin Vatican hỗ trợ thành lập hội truyền giáo
thuộc Propaganda
Fide (Cơ quan Tuyên
truyền Đức tin). Ông biện
hộ cho việc hình thành giới giáo sĩ địa phương và vận động bổ nhiệm một giám
mục in partibus (giám mục giữa lương dân) cho Nam Kỳ và Bắc Kỳ,
nhằm đối chọi lạipadroado (sự bảo
hộ) của Bồ Đào Nha đang thống trị ở đó về tôn giáo và chính trị.
Ông rời Roma ngày 11 tháng 9 năm 1652 với
nhiệm vụ do Cơ quan Tuyên truyền giao phó là tìm người và kinh phí cần thiết để
hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông
đi Piedmont và Thụy Sĩ, sau đó đến Paris vào tháng 1 năm 1653. Tại đây ông gặp
Cha Jean Bagot, một giáo sĩ dòng Tên có quan hệ rất rộng trong giới cầm quyền,
người từng làm lễ xưng tội cho vua Louis XIV. Ông tuyển mộ trong số các môn đệ của Cha Bagot một số tình nguyện viên
đi Bắc Kỳ và Nam Kỳ, đặc biệt trong đó có François Pallu, người sẽ là một trong
bavicaires apostoliques (khâm mạng tòa
thánh) được Giáo Hoàng bổ nhiệm năm 1658 cho các
sứ mệnh ở châu Á, hành động khởi đầu cho việc thành lập Missions
Étrangères de Paris (MEP, Hội truyền giáo hải ngoại Paris). Mặt khác, Compagnie du Saint-Sacrement (Hội Ái hữu
Saint-Sacrement), được Anne
d'Autriche, Saint Vincent de Paul và Bossuet hỗ trợ, cung cấp kinh phí cần thiết dự án của
Alexandre de Rhodes. Nhưng dự án này có nguy cơ gây bất hòa giữa Giáo Hoàng,
vua Bồ Đào Nha và Compagnie de Jésus. Bị thất sủng, ông được gửi đến Ba Tư vào tháng 11 năm
1654, nơi ông nhanh chóng học ngôn ngữ địa phương. Ông qua đời tại đây vào tháng 11 năm 1660.
Những chặng dừng chân trên các hành trình là cơ hội để
Alexandre de Rhodes học ngoại ngữ. Alexandre
de Rhodes biết 12-13 thứ tiếng: ngoài tiếng Pháp và tiếng Provencal, những thứ
tiếng mẹ đẻ, ông còn biết các thứ tiếng Latin, Hy Lạp, Italia và có lẽ cả tiếng
Do Thái, tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Canarin, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ba Tư và tiếng Việt, tất cả "ông gần như đều thông thạo."(Cadière, 1915,
tr. 239) Alexandre de Rhodes là người khiêm tốn. Đến Việt Nam, ông thú
nhận sự lúng túng của mình: "Thú thật là khi tôi đến Nam Kỳ và nghe tiếng
nói của người bản địa, đặc biệt là phụ nữ, tôi cảm thấy như nghe tiếng chim hót
líu lo và tôi mất hết hy vọng có ngày học
được thứ tiếng ấy." (Alexandre de Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 79). Ông
khiêm tốn, nhưng thật ra ông có năng khiếu học ngoại ngữ "dễ dàng một cách
thần kỳ." (Cadière, 1915, tr. 239). Ông không chậm trễ trong việc làm
chủ thứ tiếng như chim hót líu lo ấy: "Tôi ghi lòng tạc dạ việc này: Tôi
học hàng ngày chăm chỉ hệt như trước đây học thần học ở Roma, và ý
Chúa là sau bốn tháng, tôi đã có thể nghe hiểu những lời xưng tội, sau sáu
tháng, tôi có thể giảng đạo bằng tiếng Nam Kỳ, công việc tôi sẽ tiếp tục làm
trong nhiều năm." (Alexandre de
Rhodes, Voyages et Missions, 1854, tr. 67) Như vậy, Cha de Rhodes đã được chuẩn bị "để lần ra,
nhận biết, phân biệt và ghi lại bằng ký hiệu thích hợp những âm thanh khác
nhau, đôi khi rất gần gũi, vì thế dễ đánh lừa, trong tiếng An Nam".
(Cadière, 1915, tr. 239)
2. Alexandre de Rhodes và chữ quốc ngữ
Các cuốn “Dictionarium
Anamiticum Lusitanum et Latinum” và “Catechismus Pro iis qui volunt suscipere Batismum”, xuất bản ở Roma năm 1651, trên thực tế,
là hai tác phẩm nền tảng và không thể thay thế, đặt cơ sở cho việc ký âm tiếng
Việt bằng chữ cái Latinh và ngoài ra còn cho chúng ta biết được hình trạng
tiếng Việt thế kỷ XVII cùng sự tiến hóa của nó. Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào cuốn từ điển.
Alexandre de Rhodes đã soạn cuốn từ điển khi nào? Không nghi
ngờ gì nữa, trong những lần ông đến Việt Nam. Nhưng khoảng thời gian bảy năm ông ở xứ này luôn bị ngắt quãng bởi những
lần đến rồi đi, từ giã rồi trở lại. Nếu lưu ý thêm rằng ông còn bị
thúc bách bởi nhiệm vụ tổ chức truyền đạo
và ông thường xuyên phải sống ở trong trạng thái bí mật hoặc nửa bí mật, một
hoàn cảnh rất bất lợi cho công việc nghiên cứu ngữ nghĩa học, chúng ta có thể
giả định, như Mục sư Bordreuil, rằng có lẽ ông đã làm cuốn từ điển trong thời
gian khá dài tại Ma Cao, từ 1630 đến 1640: "Mặc dù ông không nói rõ trong
các tác phẩm của mình, chúng tôi tin rằng Cha de Rhodes đã tận dụng
khoảng mười năm yên ổn về tâm trí, nếu không phải để viết, thì ít nhất cũng là
để đặt nền tảng cho hai cuốn sách quan trọng đối với Ki tô hữu An Nam và các
nhà truyền giáo, chúng tôi muốn nói đến cuốn giáo lý và cuốn từ điển của ông.
" (Bordreuil, tr. 79) Mặt khác, thời gian ở Roma cho phép ông thực hiện
thành công việc thu xếp tài chính để xuất bản tác phẩm của mình.
Cha Lèopold
Cadière, người rất am hiểu vấn đề, nhấn
mạnh vốn hiêu biết tiếng An Nam sâu sắc của
ông: "Mọi điều liên quan đến tiếng An Nam, phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ
Nam Kỳ đều không phải là bí mật đối với ông... Ông còn cho chúng ta biết về thực trạng của tiếng An
Nam cổ, những phong tục, tập quán ngày nay không còn và những thông tin mà
chúng ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác... Thêm nữa, về nghĩa của các
từ, cuốn sách là một sự đảm bảo tuyệt đối, những khái niệm ngữ pháp ông thêm vào
cuốn từ điển cho thấy ông hiểu biết sâu sắc về cấu trúc đôi khi rất phức tạp và
tinh tế của cú pháp An Nam" (Cadière,
1915, tr. 238-39)
Cuốn “Linguae Annamiticae seu
Tunchinensis Brevis Declaratio”, phần tóm tắt ngữ pháp tiếng An Nam gồm 31 trang ở cuối, "đưa
ra một tổng quan vắn tắt về sự vận hành của tiếng An Nam. Ông dành
6 trong số 8 chương để bàn đến vấn đề từ loại trong tiếng Việt." (Bref aperçu
sur l’histoire de l’étude des parties du discours vietnamien, tr. 143). Các chương này là:
- Chữ và âm tiết trong tiếng An Nam (Chương 1)
- Dấu thanh và các dấu của các nguyên âm
(Chương 2)
- Danh từ, tính từ và phó từ (chương 3)
- Đại từ (Chương 4)
- Các đại từ khác (chương
5)
- Động từ (Chương 6)
- Các thành tố bất biến trong tiếng Việt
(Chương 7)
- Một số thành tố của cú pháp (Chương 8)
Alexandre de Rhodes bám rất sát “thực tiễn ngôn ngữ của
người An Nam trong các tầng lớp xã hội khác nhau." (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties
du discours vietnamien, tr. 149)
Nhưng ông đã ép cú pháp tiếng Việt vào cái khuôn khổ cứng nhắc của cú pháp
Latinh: "Ta có thể tìm thấy những khái niệm ngữ pháp được sử dụng để mô tả
tiếng Latin như cách, thì, thể, số, giống, và các giới từ. Trên
thực tế đó là ngữ pháp tiếng Latin mở rộng, với khuôn khổ đã đông cứng từ nhiều
thế kỷ, được áp đặt để mô tả một ngôn ngữ mới. (Bref aperçu sur l’histoire de l’étude des parties du
discours vietnamien, tr. 50) Các nhà
ngôn ngữ học Việt Nam đã phê phán quan điểm này và cho rằng ông không công bằng
với các đặc điểm của cú pháp tiếng Việt.
Để soạn cuốn từ điển của mình, có lẽ
Alexandre de Rhodes đã dựa vào những công trình ký âm Latinh tiếng Nhật
(Romanji) đầu tiên của Yajiro, một người Nhật Bản cải đạo giữa thế kỷ XVI, tuy
nhiên những tiền bối thực sự của ông là các linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha. Trong thông báo gửi độc giả cuốn từ điển, chính Alexandre
de Rhodes cũng thừa nhận rằng ông chịu ơn những người tiền bối. Ông nói rằng ông đã làm việc trên cơ sở cuốn từ điển
Việt-Bồ Đào Nha của Gaspar de Amaral và cuốn từ điển Bồ Đào Nha-Việt của
Antonio Barbosa. Nhưng người thầy trước hết của ông là Francisco de
Pina, cũng là một người Bồ Đào Nha. Từ năm 1622, Pina đã phát triển một hệ thống ký âm dùng chữ cái áp dụng cho ngữ âm và
thanh điệu tiếng Việt, đã soạn một văn tuyển và bắt đầu viết một cuốn sách ngữ
pháp (Roland, tr. 37) Năm 1624, Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho
người nước ngoài, hai sinh viên trong số đó làAntonio de Fontes và ... Alexandre de Rhodes.
Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các
quy ước ký âm của chữ Quốc ngữ cho thấy ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha, điều
chắc chắn không phải không có liên quan đến thực tế là giữa 1615 và 1788, trong
số 145 linh mục dòng Tên tại Việt Nam có 74 người Bồ Đào Nha, trong khi chỉ có
30 người Ý, 5 người Pháp và 4 người Tây Ban Nha. Thật vậy, bảng chữ cái tiếng Việt là một sự áp dụng vào
tiếng Việt bảng chữ cái được sử dụng trong các ngôn ngữ Roman của những nhà
truyền giáo. Để biểu hiện các thanh điệu,
họ sử dụng các ký hiệu trong tiếng Hy Lạp. Trong bảng ký âm này, Nguyễn Phú
Phong, tiếp theo AG Haudricourt, nhấn mạnh ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha. Các
phụ âm có nguồn gốc Bồ Đào Nha, đó là “gi”, “ch”, “x”, “nh”, còn
các nguyên âm, đó là “â”, “ê”, “ô”. (A.G Haudricourt, tr. 61, Nguyễn Phú Phong,
tr. 13-17)
Các nhà truyền giáo dòng Tên người Bồ Đào Nha và Alexandre
de Rhodes đã phát triển hệ thống chữ Việt dùng chữ cái, nhưng điều đó không có
nghĩa là họ bỏ qua chữ Nôm. Hoàn toàn trái lại. Chữ nôm được họ sử dụng rộng rãi để truyền bá phúc âm dưới hình thức
giáo lý, Thánh tích, các sách trích lời Thánh. Tên nhà truyền giáo
người Ý Girolamo Majorica xuất hiện dưới 48 công trình khác nhau, tổng cộng
4200 trang[1]. Trên thực tế, như
Jacques Roland đã nhấn mạnh, hệ thống chữ viết Latinh hóa trước hết là để giảng
đạo và phục vụ công việc của nhà truyền giáo: "Nó cho họ một phương tiện
tiếp cận khá thuận tiện với ngôn ngữ nói; nó cũng cung cấp một phương tiện trao
đổi trí tuệ và giao tiếp bằng văn bản với những giới lãnh đạo người
Việt của cộng đồng Kitô hữu, những người buộc phải học thứ chữ mới vì mục đích
đó. Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ Quốc ngữ thay đổi hết sức chậm cho
đến giữa thế kỷ XVII. Khi đó, thứ chữ viết dùng chữ cái bắt đầu lan ra trong
các cộng đồng Kitô giáo, có lẽ vì lý do an toàn đối lại với chính sách chống dị
giáo và có lẽ cũng vì dễ sử dụng. (Jacques, tr. 51)
Nhưng trên thực tế sự sáng tạo chữ Quốc ngữ không chỉ do
công sức của các nhà truyền giáo châu Âu. Họ đã không thể hoàn thành được công
việc này nếu không có sự giúp đỡ của những người Kitô giáo Việt Nam, những giáo
lý viên (les catéchistes), những giáo hữu (les frères) và tất nhiên, các
linh mục (les prêtres). Chính họ cũng là những người chúng ta phải chịu ơn
với tư cách là tác giả của những tác phẩm văn xuôi đầu tiên ở Việt Nam viết
bằng ngôn ngữ "nôm na" và phiên âm bằng ký tự Latin: Lịch
sử An Nam của Bento Thien (1659), Sổ ghi nhớ và chép
công việc do nhà truyền giáo dòng Tên Philippe Binh viết
tại Lisbonne (1822). Vai trò quan trọng của các học giả Việt Nam
trong toàn bộ công trình ngữ âm học này đã bị bỏ qua một cách bất công. Các
cộng tác viên bản địa thường không được nhắc đến. Chỉ có một vài bằng chứng cho
thấy sự hợp tác này. Francisco de Pina đã được giúp đỡ bởi một học giả trẻ
người Việt có tên thánh là Pero, một "nhà văn giỏi chữ Hán bậc nhất"
(Roland, tr. 3). Alexandre de Rhodes bày tỏ lòng biết ơn bằng những lời cảm động:
"Giúp tôi là một cậu bé bản địa tuyệt vời, người đã dạy tôi trong ba tuần
tất cả các thanh điệu của tiếng Việt và cách phát âm tất cả các từ. Cậu không
biết ngôn ngữ của tôi, tôi cũng không biết thứ tiếng của cậu, nhưng cậu có một
trí thông minh tuyệt vời khiến cậu ngay lập tức hiểu
những gì tôi định nói. Và trên thực tế, chỉ trong ba tuần ấy, cậu ta đã biết
đọc biết viết thứ chữ của chúng tôi và biết phục vụ thánh lễ. Tôi rất kinh ngạc
trước sự lanh lợi và trí nhớ của cậu”. (Alexandre de Rhodes, Voyages
et Missions, 1854, tr. 89) Còn Tổng giám mục Pigneau de Behaine, người
đã viết từ điển của mình ở Pondicherry, khoảng giữa tháng 6 năm 1772 và tháng 6
năm 1773, thì được sự giúp đỡ của tám học giả Nam Kỳ.
3. Từ Sứ mệnh truyền giáo đến sự phổ biến chữ Quốc ngữ
Pigneaux de Behaine là thành viên Missions Étrangères
de Paris. Trên thực tế, chính các giáo sĩ
của Hội truyền giáo hải ngoại là những người kế cận các giáo sĩ dòng Tên, tiếp
tục phát triển chữ Quốc ngữ. Cuốn “Dictionnarum Annamitico-Latinum” của
Pigneau de Behaine là cuốn từ điển đầu tiên bao gồm các ký tự Latinh và chữ Nôm
không có trong cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes. Bằng cách hợp lý hóa hệ
thống phụ âm và thanh điệu, ông điều chỉnh, sửa chữa và làm phong phú thêm cuốn
từ điển của Alexandre de Rhodes. Đức Cha Tabert sử dụng bản viết
tay cuốn từ điển của Pigneau de Behaine và cho in năm 1838 tại Serampore,
Bengale, dưới nhan đề “Dictionarium annamitico latinum”. Trong cuốn từ điển này, "sự đóng góp của Đức Cha
Tabert không xác định rõ được... chứa khoảng 10.000 mục từ, mô tả chi tiết các
nghĩa khác nhau của mỗi từ." (Moussay, tr. 2)
Trong năm 1868, Cha Legrand de la Liraye cho in cuốn “Dictionnaire
élémentaire Annamite-Français” (Từ điển cơ sở An Nam-Pháp). Cuốn
từ điển An Nam-La tinh của Đức Cha Tabert
được chỉnh lý và hoàn thiện bởi Đức Cha Joseph Theurel, khâm mạng tòa thánh (vicaire
apostolique) vùng Tây Bắc Kỳ, nhưng ông qua
đời vào năm 1868, trước khi hoàn thành dự án. Cha Charles
Lesserteur hoàn thành nốt công việc và công bố cuốn từ điển tại Nhà xuất bản
của Mission de Ke-So, năm 1877. Cha Génibrel, thành viên MEP, xuất
bản cuốn từ điển lớn của ông, “Dictionnaire Annamite-Français” (Từ
điển An Nam-Pháp) năm 1898. Từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1928, nhiều nhà truyền giáo thuộc MEP công bố một loạt các cuốn từ
vựng nhỏ: như những cuốn của Cha Ravier, Dronet, Pilon, Barbier,
Masseron. Năm 1937 xuất hiện cuốn từ điển đồ sộ Dictionnaire
Annamite-Chinois-Français (Từ điển An
Nam-Trung Hoa –Pháp) của Cha Hue, thuộc MEP (Moussay, tr. 3)
Công trình từ vựng học của các nhà truyền
giáo được tôn vinh bằng việc xuất bản vào năm 1957 cuốn Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Français của Cha Eugene Gouin. Cuốn từ điển được tái
bản năm 2002 bởi Nhà You Feng, đến nay vẫn được dùng để tham chiếu, mặc dù các
từ điển gần đây nhất đã cập nhật sự tiến hóa của tiếng Việt viết và nói.
Cần phải nhắc thêm các cuốn ngữ pháp, các
sách và nhiều bài báo nghiên cứu ngữ âm và ngôn ngữ học. Như vậy,
nếu các nhà truyền giáo ít dịch tác phẩm văn học, ngoại trừ cổ tích, thì họ đã
rèn giũa đa số các công cụ dịch thuật. Ngoài các
nhà truyền giáo, chúng ta phải thừa nhận sự đóng góp đáng kể của Georges
Cordier, người đã xuất bản vào năm 1930 cuốn “Dictionnaire annamite-français
à l’usage des élèves et des annamitisants”.
Chữ Quốc ngữ cũng được lọc
qua cộng đồng Công giáo, vốn có thiên hướng hợp tác với những kẻ chinh phục,
đặc biệt là các tác phẩm của hai học giả lớn, Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) và
Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898). Huỳnh Tịnh
Của, Ðốc phủ sứ đầu tiên của tỉnh,
đã dịch các sắc lệnh của chính quyền Sài Gòn ra tiếng Việt, phổ biến chữ Quốc
ngữ trên tờ báo tiếng Việt dùng chữ Quốc ngữ đầu tiên, tờ “Gia Định Báo”,
xuất bản các truyện cổ và thần thoại sưu tầm trong khoảng 1880 –
1887 và soạn một cuốn từ điển tiếng Việt, vào năm 1897, phỏng theo từ điển
tiếng Pháp. Nhưng một trong những đại kiến
trúc sư của sự truyền bá chữ Quốc ngữ là Trương Vĩnh
Ký. Nổi tiếng là một thiên tài đa ngữ, ông học tiếng Xiêm, tiếng Miến Điện,
tiếng Lào, tiếng Cambodia, tiếng Trung Quốc ở Xiêm; học tiếng Nhật, tiếng
Hindi, tiếng Hy Lạp, tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Pháp tại Chủng
viện Pénang, Singapore. Năm
1863, với tư cách là thư ký kiêm thông dịch viên, ông cùng với phái đoàn của
Phan Thanh Giản đến Paris để xin chuộc lại ba tỉnh đã nhượng cho Pháp. Khi trở
về, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng
trường thông ngôn và giáo sư Trường hậu bổ. Trong số trước
tác đồ sộ của con người đa tài ấy - sử gia, nhà tiểu luận nhà chính trị, nhà
văn, nhà thơ và dịch giả - chúng ta chú ý trước hết đến cuốn sách ngữ pháp
tiếng Việt đầu tiên do một người Việt viết (1863); cuốn “Petit
dictionnaire franco-annamite” (Tiểu
từ điển Pháp-An Nam); các bản phiên âm Quốc ngữ một số kiệt tác văn học chữ
Nôm, như Kim Vân Kiều, Phan Trần, và Lục Vân Tiên; một số tác phẩm tự sự văn
xuôi, đặc biệt là “Đông kinh du ký”, xuất bản năm 1887.
Về tiểu thuyết, cũng trong quỹ đạo của Công
giáo, ta thấy xuất hiện, "câu chuyện hiện đại đầu tiên khai thác cái tôi,
viết bằng văn xuôi, sử dụng chữ Quốc ngữ theo lối phương Tây, trong đó mô tả
các nhân vật của đương thời với
cuộc sống nội tâm, gia đình và xã hội." [2] Đó là “Truyện Thầy Lazaro Phiền” của
Nguyễn Trọng Quản, do J. Linage xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1887.
Chủ đề, bối cảnh và nhân vật đều liên quan
đến Ki tô giáo: nhân vật chính, Lazarô Phiền, trốn tránh trong cuộc sống tôn
giáo sau khi lầm tin vào một lá thư, giết chết cô vợ trẻ và người bạn thân nhất
của mình[3].
Trong nửa đầu của thế kỷ XX sự đóng
góp của các tác giả người Việt ngày càng tăng, vượt xa giới Ki tô hữu. Đặc biệt
cần phải nhắc đến: Buu-Can,
với “Hán Việt thành ngữ” (Hà Nội, 1933), Do-van-Dap,
với “Từ điển Hán - An Nam” (Nam Định, 1933), Đào Duy
Anh, “An Nam-Pháp từ điển”, có chua chữ Hán các thuật ngữ Hán Nôm (Hà Nội, 1936),
Long-Dien Nguyễn Văn Minh, “Từ điển điển tích văn học sắp xếp theo
bảng chữ cái” (Hà Nội, 1941), Hoàng Xuân Hãn, “Từ vựng
khoa học” (Sài Gòn, 1948); Dao Văn Tien, “Từ vựng khoa
học” (Paris, 1945), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp Việt
Pháp” (Sài Gòn, 1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tổng hợp
Pháp-Việt Nam” (Sài Gòn, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Anh-Việt” (Hà
Nội, 1950), Lê Bá Kông, “Từ điển Việt-Anh” (Hà Nội,
1950), Đào Văn Tập, “Từ điển tiếng Việt” (Sài Gòn,
1951), Trần Văn Hiệp, “Từ điển Trung-Việt” (1951);
Thanh-Nghị, “Từ điển Việt-Pháp” (Sài Gòn, 1952); Dao Dang Vi, “Từ
điển Pháp-Việt” (Sài Gòn, 1952). (Moussay, tr. 8)
Những công cụ ngôn ngữ học này rất hữu ích cho những kẻ thực
dân. Thật vậy, những kẻ thực dân có nhu cầu
thực tế phải học ngôn ngữ của dân thuộc địa và đào tạo thông dịch viên, những
người làm trung gian cho họ. Để làm việc này, họ dựa vào các nhà truyền
giáo. Trên thực tế, Trường Thông
ngôn Sài Gòn, mà kể từ năm 1861 đã nhận hàng nghìn học sinh, chỉ là một
biến thể của Trường trung học Adran nơi các nhà truyền giáo giảng dạy chữ
Quốc ngữ và tiếng Latinh cho khoảng 40 học sinh[4]. Cùng năm đó, tức chỉ ba năm sau sự can
thiệp của Pháp, viên sĩ quan hải quân Gabriel Aubaret xuất bản, bằng chữ Quốc
ngữ, cuốn Từ vựng Pháp-An Nam và An Nam-Pháp, và sau đó
là Ngữ pháp tiếng An Nam, năm 1867. Tiếng Pháp đã thế chỗ tiếng Latinh, nhưng tính chất công cụ
của công cuộc này vẫn còn nguyên. Trong
viễn kiến này, như Paulin Vial, Giám đốc Nội vụ Nam Kỳ, đã nhấn mạnh, việc sử
dụng chữ Hán là một trở ngại cho hoạt động của chính quyền thuộc địa và sự giao
tiếp giữa người Pháp và người Việt: “Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã nhận
thấy rằng chữ Hán là một rào cản giữa chúng ta và dân bản địa; việc áp dụng lối
viết dùng chữ cái giúp chúng ta hoàn toàn thoát khỏi rào cản đó; chữ Hán gây
khó khăn cho việc chuyển tải đến người dân các khái niệm khác nhau cần thiết
cho họ, ở mức độ phù hợp với tình hình chính trị và xã hội mới." [5] Ngoài ra, ngày 22 tháng 02, 1869,
Chính quyền Nam Kỳ ra một nghị định, bắt buộc sử dụng chữ Quốc ngữ trong các
văn bản hành chính.
Ngoại trừ các cơ quan của chính quyền thuộc địa và những
người có liên quan bằng cách này hay cách khác, chữ Quốc ngữ ban đầu bị người
Việt từ chối. Đối với một số nhà nho yêu nước, đó là chữ của quân xâm lược, tức
bọn dã man. Một trong số họ, ông Nguyễn Bá
Học (1857-1921), trước khi trở thành một trong những cây bút hay nhất của tạp
chí Nam Phong, trong tình thế buộc phải học chữ Quốc ngữ để
xin việc, đã trải nghiệm cảm giác xấu hổ: "Nói chung tôi không dám đọc
thành tiếng; hễ có khách đến nhà, tôi vội vàng giấu cuốn sách vào túi như thể
giấu một cuốn sách bí mật, hay sách cấm – đó là cuốn học vần, có bảng 24 chữ
cái Latin”. [6]
Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XX, hàng loạt yếu tố đã thúc đẩy
những người yêu nước Việt Nam biến chữ Quốc ngữ thành một công cụ đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Việc ký kết Hiệp
định Patenôtre (1884) công nhận
quyền cai trị của Pháp trên toàn cõi Việt Nam và cái chết của Phan Đình Phùng
(1895) đánh dấu sự kết thúc cuộc kháng chiến của các quan lại triều đình, dẫn
đến sự xuất hiện của một thế hệ các nhà yêu nước mới, trong đó hai lãnh tụ
là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, những người đã làm quen
với tác phẩm của Descartes, Montesquieu,
Voltaire và Rousseau qua các bản dịch chữ Hán và được truyền cảm hứng mới từ
Tân thư của các nhà cải cách Trung Hoa như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Việc Nhật
Bản đánh bại Trung Quốc (năm 1895) và Nga (năm 1905) đã thúc đẩy Phan Bội Châu
phát động phong trào "Đông Du”, bí mật đưa sinh viên Việt Nam sang Nhật
Bản để theo học trong các “trường Tây” của người Nhật. Nhưng sau thỏa thuận Pháp-Nhật, các sinh viên này bị trục xuất.
Phan Châu Trinh thì đề cao các nguyên tắc của Cách mạng Pháp trong cuộc đấu
tranh chống thực dân. Hai cụ
"Phan" cùng một nhóm nhà Nho, với tinh thần hiện đại hóa và phê
pháp Tân Nho giáo - bị coi là phản bội học thuyết của Khổng Tử - mở
trường Đông Kinh Nghĩa Thục vào năm 1907. Trường này dạy miễn phí chữ Quốc ngữ
và thúc đẩy việc hiện đại hóa văn hóa Việt Nam. Sau chín tháng tồn tại, trường
bị chính quyền thuộc địa giải thể, những người lãnh đạo, tham gia và ủng hộ bị
bắt giam, đặc biệt là bị đày ra Côn Đảo. Nhưng triết lý và phương pháp của
trường đã lan rộng như dầu loang trên cả nước. Từ nay, chữ Quốc ngữ, hiện đại
hóa và độc lập là không thể tách rời: "Được rửa tội bởi bàn tay của những
chí sĩ yêu nước, chữ Quốc Ngữ không còn là chữ của họ (tức là của người Pháp,
những linh mục Công giáo), mà trở thành con đẻ của tiếng Việt và từ nay được
nhân dân Việt Nam yêu mến và tôn trọng." (Nguyễn Văn Hoàn, tr. 82)
Chiến thắng của chữ Quốc ngữ cũng liên quan
chặt chẽ tới sự biến mất của chế độ Khoa cử ba năm một lần, một cách tuyển dụng
quan lại truyền thống của Việt Nam. Từ thời Tự Đức, các kỳ thi không còn được
tổ chức tại Nam Kỳ. Hai kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Nam Định (1915) và
Huế (1919). Việc xóa bỏ chế độ khoa cử không những thúc đẩy sự suy tàn của chữ
Hán, mà còn phản ánh một sự thay đổi văn hóa sâu sắc: "Các cuộc thi thơ
phú từ đây phải cạnh tranh với các chương trình học mới, và dần dần mất giá,
bởi vì này càng ít có ích lợi để tiến thân trong xã hội mới." (Brocheux, Hémery, tr. 218)
Các nhà Nho thức thời cũng là những người ủng hộ mạnh mẽ chữ
Quốc ngữ: "Đến lượt mình, các nhà
Nho Việt Nam cũng coi chữ Quốc ngữ như một công cụ hữu hiệu để phổ biến Tư tưởng mới, Sách
báo mới và giáo khoa
mới cho dân chúng ... Sự tiếp nhận chữ Quốc ngữ đi đôi với việc phổ biến các tác phẩm mang
tinh thần hiện đại xuất bản với
trọng trách và trong khuôn khổ các
hoạt động văn hóa và giáo
dục." (Trịnh Văn Thảo, tr. 207) Tác phẩm nghiên cứu tổng hợp đầu tiên về văn minh phương
Tây, “Văn Minh Tân học sách”, được xuất bản chính với logich như
thế (Trịnh Văn Thảo, tr. 208)
Việc tiếp nhận chữ Quốc ngữ của người Việt không thể
tách rời phong trào xóa nạn mù chữ. Theo David
Marr, trong khoảng giữanăm 1920 và
1940, có 88 cuốn sách học vần khác nhau được công bố,
tổng cộng 364 lần in, với 3,7 triệu bản. (Trích theo Phạm Đán Bình, tr.135) Những cuốn sách này không chỉ nhằm phổ biến chữ Quốc ngữ, mà còn để chống nạn mù chữ. Năm 1926, theo Georges
Garros, cũng được trích dẫn bởi Phạm Đán Bình (tr.135), chỉ có 20.000 học
sinh trong số ba triệu trẻ em ở độ tuổi đi học. Năm 1938, đểkhắc phục sự kém cỏi của chính quyền, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập và đến khoảng năm 1945 đã tuyển dụng 1971
giáo viên cho 59 827 người học
và phân phát 175 000 cuốn học vần (Phạm Đán Bình, tr.136) Chiến dịch
chống nạn mù chữ đã được phát
triển rộng rãi nhờ Mặt trận Cách mạng (Việt
Minh). "Từ
tháng 9 năm 1945 và tháng 12 năm 1946, Bình
dân học vụ đã huy động 95.665 giảng viên tình nguyện để dạy đọc và viết cho 2.520.678 người. Đến
cuối năm
1958, có thể khẳng định rằng 93,4% dân số các
vùng đồng bằng, ở độ tuổi từ 12 đến 50, đã thoát nạn mù chữ”. (Phạm
Đán Bình, tr.136).
Chữ Quốc ngữ, như vậy, đã trở
thành phương tiện chuyên chở của hiện đại hóa và
bản sắc dân tộc: "Một
hình ảnh phổ
biến trong dân chúng thể hiện cảnh Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cũng là con một nhà Nho yêu nước, đứng
cạnh bảng đen, dạy trẻ em nông thôn đọc và viết chữ Quốc ngữ. Chữ Nôm bị xóa dần cho đến khi biến
mất hoàn toàn, còn thứ chữ của những nhà truyền giáo và người Pháp đã trở thành chữ viết duy nhất của mọi người Việt Nam: "chữ Quốc ngữ”. Được sử dụng
trong mọi lĩnh vực,
chữ Quốc ngữ đã được tôn vinh như là phương tiện chuyên chở ý thức hệ”. (Jacques, tr. 51)
4. Kết luận
Để kết thúc bài viết này, chúng ta
hãy trở lại với Alexander của Rhodes và sự công nhận ngày càng tăng của chính quyền Việt Nam về vai trò của ông. Thật vậy, sau
năm 1945, sự
chối bỏ thời kỳ
thuộc địa đã dẫn đến sự phủ nhận sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, "Sự Latinh hóa văn bản
được coi là một hành động chính trị thù địch,
một ý đồ phá hủy cấu trúc văn hóa nhằm chia rẽ văn hóa cộng
đồng quốc gia và áp đặt sự thống trị nước ngoài." (Jacques Roland, tr. 24)
Theo logich này, đài tưởng niệm Alexander de Rhodes đã bị gỡ bỏ:
"Thật không may, cái đài tưởng niệm ấy đã biến
mất vào một ngày cách
đây khoảng ba mươi
năm. Ai đã gỡ nó? Không ai biết! Một hành động chính trị hay
một sự phá hoại đơn thuần, bí ẩn ấy vẫn chưa
được sáng tỏ. Vậy đó, tấm bia, mặc
dù khá lớn, đã biến khỏi bệ... Một lần người ta nhìn thấy nó trong một hiệu chữa khóa, nơi nóđược dùng làm...đe. Sau đó, một nhà
buôn chè dùng nó để bầy
hàng – thật tiện để vừa uống trà vừa học! Một số người thậm chí cònnhìn thấy
nó bên bờ sông Hồng…Vào những năm 1980, tại
khoảng không gian dành
cho Alexandre de Rhodes mọc
lên một tượng đàicách mạng trắng tinh
khôi tuyệt đẹp, tôn vinh những người yêu nước: ba pho tượng người chiến sĩ cỡ lớn,
một trong số đó là phụ nữ. Trên bệ, có dòng chữ: "Quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh." (Le
courrier du Việt Nam)
Phải đến năm 1993 Alexander de Rhodes mới được phục hồi danh
dự. Năm đó, Câu lạc bộ sử gia đã tổ chức nói chuyện về Alexander Rhodes và Giáo sư Nguyễn Lân đã nhắc
đến đài tưởng
niệm giáo sĩ người Pháp. Theo ông, đáng
lẽ không nên phá đài kỷ niệm ấy. “Le
courrier du Viêt Nam” dùng từ « enlèvement” (gỡ bỏ): “Hành động này
cho thấy một nhận thức thiển cận, sự thiếu hiểu
biết vềlịch sử và, dù sao đi chăng nữa, cũng không xứng
đáng với truyền thống của dân tộc ta. Alexandre de Rhodes,
chẳng phải là ông đã làm việc cho người Việt Nam hay
sao? Chữ Quốc ngữ, thứ chữ dễ học hơn nhiều so với chữ tượng hình,
đã giúp phần lớn dân chúng tiếp cận tri
thức và thông tin... Và nhà truyền giáo cũng là một nhà nhân văn chủ
nghĩa, gần gũi với dân chúng." (Le courrier du Việt Nam).
Đã đến lúc trả lại cho Alexander de Rhodes không gian kỷ niệm tại trung tâm thủ đô nước Việt. Giáo sư Nguyễn Lân đề xuất để xây dựng một bức
tượng bán thân ở công viên Tao Đàn ở phía trước cửa trường Đại
học Dược Hà Nội. Nhưng cũng có thể đặt
lại tấm bia cũ bây
giờ đang được lưu trữ trong kho của Ban quản lý các di tích lịch sử và du
lịch thủ đô. Năm
1995, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức
một hội thảo chuyên đề về cuộc đời và sự
nghiệp của nhà truyền giáo người Pháp. Trong lời phát biểu của ông vềđóng góp của giáo sĩ dòng Tên người Pháp tại Việt Nam, TS. Nguyễn Duy Quý
kết luận: "Chúng tôi dự định đặt tấm bia cũ trong khuôn viên Thư viện Quốc gia. Chúng tôi cũng
muốn khôi phục lại tên
của nhà truyền giáo nổi tiếng cho một đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh đã bị đổi tên vài thập kỷ trước... (Le courrier du Viêt Nam)
Như vậy, công lao
của Alexandre de
Rhodes đã được chính quyền Việt Nam công nhận thỏa
đáng.
Ngô Tự Lập dịch
(từ tiếng Pháp)
I. Ouvrages d’ Alexandre de Rhodes
1. Catechismus Pro iis qui
volunt suscipere Batismum in octo dies divisus (Phep giang tam ngay cho ke
muân chiu phep rua, ma be do dao thanh duc Chua bloi), Ope scra Congregationis
de Propaganda Fide in lucem editus? Ab Alexandro de Rhodes è Societate IESU
ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis Sacrae
Congregationis de Propaganda Fide, Superiorum permissu.s.d. 323 p, Imprimatur,
Rome, 8 Juillet 1651.
2. Dictionarium Anamiticum
Lusitanum et Latinum ope Sacra Congregationis de Propaganda Fide in
lucem editum ab Alexandro de Rhodes E Societate Iesu ejusdemqu Sacrae
Congregationis Missionario Apostolico, Romae, Typis et sumptibus ejusdem
Sacr. Congregat. MDCLI (1651), SuperiorumPermissev, 88ff, 450p, deux
colonnes +Linguae Annamiticae sev Tunchinensis bevis Declaratio, pp 1-31,
3. Histoire du royaume du
Tonkin par A. de Rhodes, Revue Indochinoise, 1908, 2° semestre, 30
juillet, 15 août, 31 août, 15-30 septembre. Traduction de Tunchinensis historiae
libri duo quorum altero status temporalis huius Regni …, Lyon, 1652.
4. Voyages et missions du
Père Alexandre de Rhodes de la Compagnie de Jésus, en la Chine et autres
royaumes de l’orient. Nouvelle édition par un père de la même Compagnie (Le
Père Auguste Carayon), Paris, Julien Lanier et cie, 1854 pp VII-448.
1. Pigneau de Behaine Joseph Georges
(1741-1799) membre du Séminaire des Missionnaires de Paris, évêque d’Adran,
vicaire apostolique de Cochinchine, de Cambodge, de Ciampa, Vocabularum
annamitico-latinum, 1772, 729 p, Edition en fac-similé du manuscrit
original, Documents des Archives des Missions Étrangères de Paris, 2001, 729 p,
34,5 x 24 (Traduction en vietnamien : Tu vi Annam Latinh préfacé
par Nguyên Dinh Dâu, Thanh Pho Hô Chi Minh, Nha xuât ban Tre, 1999, 574 p, 14 x
20.
2. Taberd A.L (1794-1840), Dictionnarum
annamitico-latinum, primum incetum ab P.J Pigneaux, episcopo adranensi, vicario
apostolico Cocincinae, dein abslutum et editum a I.L Taberd, episcopo
isauropolitano, vicarioapostolico Cocincinae, Serampore, EX Typis, J.C
Marsham, 1838, XLVI, 7322-128 p, 28cm. Réimprimé au Viêt Nam en 2004 par le
Centre d’études de la culture nationale.
3. Aubaret Gabriel,
Grammaire annamite, suivie d’un vocabulaire français-annamite et
annamite-français, Paris, Imprimerie Impériale, 1867.
4. Truong Vinh Ky, Jean
Baptiste Petrus, Abrégé de grammaire annamite, Saïgon,
Imprimerie Impériale, 1867.
5. Legrand de la Liraye
1868 Dictionnaire élémentaire Annamite-Français, Saïgon,
Imprimerie Impériale, 184 p.
6. Theurel, Mgr Joseph, Dictionnarum
annamitico-latinum, ex opere Taberd con tans, nec no ab J.S Theurel,
episc, A canthensi, vicario apost, Tunquini occidantalis recognitum et
notabiler adauctumad quod ac-cessit, Appendix de vocibus sinicis et
locutionibus minus usitatis, Nin Phu, Ex Typis Missionis Tunquini occidentalis,
1877, XXX-566-71 p
6. Truong Vinh Ky, Jean
Baptiste Petrus, Grammaire de la langue annamite, Saïgon, C.Guilland
et Martinon, 1883, 304 p.
7. Truong Vinh Ky, Jean
Baptiste Petrus, Guide de la conversation annamite. Sách tâp nói
chuyên tiêng Annam vá tiêng Phangsa. 2e édition. Saigon, Ban-in Nhà Hàng C.
Guilland et Martinon, 1885.
8. Truong Vinh Ky, Jean Baptiste
Petrus Petit dictionnaire franco-annamite, Nouvelle édition
ornée du portrait de l'auteur illustrée de 1250 gravures extraites du Petit
Larousse illustré. Saigon, F.-H. Schneider, 1911 (Première édition, 1887).
9. Huynh Tinh Cua, dit Paulus
Cua, Dictionnaire annamite ... Dai nam quâc âm tu vi. Tham dung chu nho
có giai nghia, có dan chúng, muon 24 chu cái phuong Tây làm chu bô. Deux
volumes. Saigon, Rey, Curiol & Co., 1895-1896.
10. Génibrel, J.MF, Dictionnaire
annamite-Français comprenant 1°: tous les caractères de la langue annamite
vulgaire avec l’indication de leurs divers sens propres et figurés et justifiés
par de nombreux exemples, 2° les caractères chinois nécessaires à l’étude de
Thu Tho, (=Quatre Livres classiques chinois), 3° la flore et la faune de
l’Indochine par JMF Genibrel, missionnaire apostolique, 2° édition
refondue et considérablement augmentée, Saïgon, Imprimerie de la Mission à Tân
Dinh, 1898, 987 p.
11. Hue, Gustave, MEP, 1937 Dictionnaire
Annamite-Chinois-Français, Hanoi, Imprimerie Trung Hoa Thiên Ban,
1937, 1199-7 p.
12. Cordier Georges, Dictionnaire
annamite-français à l’usage des élèves et des annamitisants, Hanoi, Imprimerie
Tonkinoise, 1930, 1433 p.
13. Gouin Eugène, Dictionnaire
vietnamien, chinois, français, Saïgon, Imprimerie d’Extrême-Orient,
1957, réédité en 2002 par les Editions You Feng, en collaboration avec Les
Indes Savantes et les Missions Étrangères de Paris.
III. Ouvrages et articles
1. Bordreuil,
Daniel, Etude biographique schématique sur le R .P Alexandre
de Rhodes, S.J, (1591-1660) apôtre de l’Annam au XV11ème Siècle, Thèse
de Maîtrise en Théologie soutenue le 8 Avril 1954, Faculté Libre de
Théologie Protestante, d’Aix en
Provence.
2. « Bref aperçu sur l’histoire
de l’étude des parties du discours vietnamien (1ère période), Lê thi Xuyên,
Pham Thi Quyên, Do Quang Viêt, Nguyên Van Bich, (Université Paris VII,
Univerité Nationale de Hanoi), Histoire Épistémologie Langage,
2004, pp 137-158.
3. Brocheux Pierre, Hémery
Daniel, Indochine, la colonisation ambiguë, Parsis, éditions la
découverte, 2004
4. Cadière Léopold, Missions
Étrangères de Paris, «Les Européens qui ont vu le Vieux Hué: le père de
Rhodes», Bulletin des Amis du Vieux Hué, II, 1915, pp 231-250.
5. Cadière Léopold, «Le Titre divin
en annamite. Etude de terminologie chrétienne», Revue d’histoire des
missions, supplément au n°de Décembre 1931, pp 1-27.
6. Cadière Léoplod, « Iconographie
du Père de Rhodes », Bulletin des Amis du Vieux Hué, XXV,
1938, pp 27-62.
7. Francis, John de, Colonisation
an language policy, La Haye, 1977
8. Haudricourt, André Georges,
« Origine des particularités de l’alphabet vietnamien », Bulletin Dân
Viêt, 3, EFEO, 1949, pp 61-68.
9. Jacques, Roland, «Le Portugal est
la romanisation de la langue vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire», Revue
d’histoire de la France d’outre-mer, T 85, 1998, n° 318, pp 21- 54.
10. Le courrier du Viêt
Nam, 4, Juillet 2004, Hông Nga et Sébastien.
11. Moussay Gérard, Les
dictionnaires vietnamiens du XVIIème au XXIéme siècle, Texte inédit aimablement
communiqué par l’auteur, 8 p.
12. Nguyên Phu Phong, «Regards
comparatifs sur les deux écritures vietnamiennes», Cahiers d’études
vietnamiennes, 15, 2001, pp 1-22.
13. Nguyên Van Hoan, «Le quôc ngu,
nouvel instrument de la langue vietnamienne», Approches Asie, n° 7,
Mars 1984, pp 70-88)
14. Phan Dan Binh, «Romanisation de
l’écriture et alphabétisation au Viêt Nam. Bilan et problèmes», in Illetrismes:
variations historiques et anthropologiques, sous la direction de Bernard
Frankael, Paris, BPI, Centre Georges Pompidou, 1993, pp 125-137.
15. «Souvenir d’ Alexandre de Rhodes
(1591-166)», 37ème cahier de la Société de géographie de Hanoi, Hanoi,
G.Taupin, 1941, tirage à part du n°41 de la revue Indochine,
spécialement réimprimé par les Amis du Vieux Hanoi et les membres du Comité du
Monument d’Alexandre de Rhodes, 15p.Cf notamment les articles suivants:
R.Bourgeois, Alexandre de Rhodes, pp 3-5, P.Boudet, Les œuvres
du R.P Alexandre de Rhodes, pp 6-8, Nguyên Van Tô, Le père
Alexandre de Rhodes et la transcription de Quôc Ngu, pp 9-10. de Francis,Colonisation
and language policy, La Haye, 1977.
16. Trinh Van Thao, Vietnam.
Du confucianisme au communisme, Paris, L’Harmattan, Logiques sociales,
2007.
17. Vietnamese
Lexicography, Nguyên Dinh Hoa, http: //www.vietnamjounal.orgarticle 51
18. Vu Khanh Tuong, Les missions jésuites avant les
missions étrangères au Viêt Nam (1615-1665), Travail présenté pour
l’obtention du Doctorat en Théologie, Institut Catholique de Paris, 1956.
[1]Alexandre Lê, Etude du Nôm,
écriture idéographique de la langue vietnamienne : son histoire, sa
structure et sa valeur littéraire , Paris, I.N.A.L.C.O, 1995, D.E.A de
langue vietnamienne, tr. 61-60.
[2] Pham Dan Binh, Littérature
vietnamienne et apports français au début du 20°siècle, in
« Littérature d’Extrème-Orient au xx° siècle », Arles, Editions
Philippe Picquier, 1993, p 57.
[5] Lettre de Paulin Vial adressée au
Gouverneur de Saïgon le 15 Janvier 1878 in J.Bouchot, Petrus Truong
Vinh Ky, érudit indochinois, Saïgon, 3°édition, 1927, tr. 48 . Trích
theo Nguyên Van Hoan), Tạp chí Nam Phong, n°50, 1921, p 78 .
[6] Lược sử cụ Nguyễn Bá Học (Biographie
succincte de Nguyễn Bá Hoc , trích theo Nguyễn Văn Hoàn, đã dẫn. tr. 80
[7] Les dictionnaires et grammaires
postérieurs au dictionnaire d’Alexandre de Rhodes, sont citéspar ordre
chronologique.
>>> Bài viết được đăng ngày 16/3/2014
0 nhận xét:
Đăng nhận xét