Nghệ thuật mới TL Nhận Đường của Nguyễn Đình Thi


Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
             Khoa Văn học & Ngôn ngữ

Những quan điểm nghệ thuật mới trong tiểu luận "Nhận Đường" của
Nguyễn Đình Thi


Mục lục
I.            Nguyễn Đình Thi và tiểu luận Nhận đường
1.                       Cuộc đời
2.                       Sự nghiệp
3.                       Xuất xứ tác phẩm
4.                       Ý nghĩa nhan đề
II.        Cái mới trong quan điểm nghệ thuật của tiểu luận Nhận đường
1.                       Về nhiệm vụ của văn nghệ trong kháng chiến
2.                       Về vai trò của văn nghệ đối với đời sống mới
3.                       Về trách nhiệm của người cầm bút
4.                       Hướng đi của văn nghệ trong chặng đường sắp tới
III.     Tổng kết
Tài liệu tham khảo

 ***

I.    Nguyễn Đình Thi và tiểu luận Nhận đường
1.       Cuộc đời
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 ở Luông Pha Băng (Lào). Tuy nhiên nguyên quán của ông ở làng Vũ Thạch, hiện nay là phố Bà Triệu, thuộc địa phận phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cha ông là một viên chức Sở Bưu điện Đông Dương, từng sang làm việc ở Lào.
Nguyễn Đình Thi giác ngộ lý tưởng cách mạng từ rất sớm. Những năm 1940, ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc, khi đó ông mới 16 tuổi. Năm 1954 ông tham dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 1 sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký hội Văn hóa Cứu quốc.
   Không những tích cực hoạt động cách mạng, Nguyễn Đình Thi còn là một người nghệ sĩ đa tài, có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghệ thuật. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1996, ông được nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I.
Sau năm 1954 ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chỉ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Đình Thi song hành với đời văn nghệ, có lẽ vì thế mà ông có những quan điểm nghệ thuật mới về nhiệm vụ, vai trò cũng như sức ảnh hưởng to lớn mà nghệ thuật mang lại cho đời sống tinh thần của quân dân ta trong cuộc kháng chiến.
Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 2003, tại Hà Nội.

2.       Sự nghiệp
    Thơ Nguyễn Đình Thi dạt dào cảm hứng yêu thương sâu lắng về đất nước. Nhờ tài năng và bản lĩnh sáng tạo, Nguyễn Đình Thi có một phong cách thơ riêng, độc đáo và hiện đại: Người chiến sĩ, bài thơ Hắc Hải, Đất nước,...

Về văn xuôi, các tác phẩm của Nguyễn Đình Thi là sự phản ánh kịp thời các cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân ta: Xung kích (1951), Bên bờ sông Lô (1957),..

Không chỉ là một nhà thơ, nhà văn, Nguyễn Đình Thi còn là tác giả của nhiều vở kịch, nhạc phẩm: kịch Con nai đen (1961), ca khúc Người Hà Nội (1947), Diệt phát xít(1945). Đồng thời, ông còn là một cây bút lý luận phê bình văn học sắc sảo và có phong cách riêng. Ông viết nhiều tiểu luận tiến bộ dưới ảnh hưởng của quan điểm văn nghệ mác xít: Mấy vấn đề văn học (1956), công việc của người viết tiêu thuyết (1964).
      3. Xuất xứ tác phẩm
Văn bản Nhận đường được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 - trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và có vai trò quan trọng trong việc định hướng sự phát triển của văn học suốt những giai đoạn sau. 
Nhận đường được in trên tạp chí Văn Nghệ số đầu tiên, xuất bản vào tháng 03-1948.
      4. Ý nghĩa nhan đề
Nhận đường có nghĩa là nhận ra con đường mới đúng đắn hơn, đồng thời với nó là sự phủ định, bác bỏ chân lí cũ đã lạc hậu, bảo thủ và không phù hợp với hoàn cảnh – lịch sử, xã hội bấy giờ.
Nguyễn Đình Thi viết tiểu luận này năm 1948. Đây là thời điểm mang ý nghĩa lịch sử quan trọng với cả dân tộc, Đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ mà anh dũng. Trước tình hình đó, giới nghệ sĩ nói chung và đặc biệt lả các nhà văn, nhà thơ nói riêng, cẩn nhìn lại quan điểm nghệ thuật. Khuynh hướng sáng tác của mình cho phù hợp hoàn cảnh lịch sử dân tộc. Người nghệ sĩ cần đem tác phẩm của mình phục vụ nhân dân, phục vụ cho công cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc. Cùng với đó là thái độ phủ định đối với quan niệm nghệ thuật xưa, không phù hợp với nhu cầu lịch sử của dân tộc.

     II.  Cái mới trong quan điểm nghệ thuật của tiểu luận Nhận đường
1.   Về nhiệm vụ của văn nghệ trong kháng chiến.
Nhận đường là một thái độ, một sự lựa chọn dứt khoát của văn nghệ sĩ Việt Nam đối với cách mạng và kháng chiến. Cũng giống như tinh thần chính của đa số tác phẩm trong thời kỳ này, Nhận đường của Nguyễn Đình Thi đã thể hiện tốt vai trò của mình khi khái quát một cách rõ ràng vai trò của văn nghệ là “vũ khí chiến đấu” chống quân thù.
   Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Thi đã nêu bật được nhiệm vụ quan trọng của văn nghệ trong thời kháng chiến, đó là mỗi sáng tác là một viên đạn bắn vào đầu kẻ thù”. Tác giả đã sử dụng sự liên tưởng vô cùng đặc sắc khi dùng hình ảnh viên đạn bắn vào đầu kẻ thù để nói lên sức mạnh của văn nghệ. Một viên đạn bắn ra có thể làm tổn thương bất cứ ai, cũng giống như một tác phẩm nghệ thuật đủ sức làm lay động biết bao tâm hồn, tạo nên sức mạnh lớn lao, khơi gợi cảm hứng chiến đấu và yêu nước cho tất cả mọi người. Như trong bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dựng nên hình ảnh người lính mộc mạc nhưng ý chí kiên cường.
"Áo anh rách vai,
Quần tôi có vài mảnh vá.
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Điều này cũng được thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật khác như các bức tranh đề tài kháng chiến của họa sĩ Tô Ngọc Vân Hà Nội vùng đứng lên, Khi giặc đi qua…; tác phẩm Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc,..
Văn nghệ tạo thành một đường mạch lan tràn khắp nơi: "ngay trong các hàng vệ quốc quân, trên các cánh đồng, trên các công binh xưởng, giữa lòng nhân dân." Văn nghệ mang đến một thứ ánh sáng huyền bí, xua tan bóng tối của chiến tranh, sáng được lên những vui buồn yêu ghét mạnh mẽ của kháng chiến. Văn nghệ chiếu rọi vào hướng đi, vào ý thức mọi người những hiểu biết về kháng chiến và giúp mọi người vạch ra con đường phải chọn. Văn nghệ đem ánh sáng cuộc sống đến cho con người, mở ra những cái nhìn mới đầy lạc quan, yêu đời, xây dựng một con người mới. Tư tưởng đó của Nguyễn Đình Thi hoàn toàn phù hợp với bối cảnh xã hội nước ta thời bấy giờ.
   Có thể thấy, trong kháng chiến văn nghệ đã thể hiện được rất rõ sức mạnh và nhiệm vụ của mình, đó là: "Đem ý thức kháng chiến vào cuộc đời hàng ngày, châm lên trong lòng người những tình cảm kháng chiến mãnh liệt, làm cho mọi người gắn liền vào cuộc kháng chiến." Thế nhưng, văn nghệ và kháng chiến không chỉ chịu tác động từ một phía mà ở đây còn có một sự ảnh hưởng qua lại. “Văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới," cuộc sống kháng chiến là chất liệu cho văn nghệ được tạo thành. Từ kháng chiến, các tác giả phát hiện cho mình những lý tưởng sống cao đẹp, kháng chiến khơi gợi biết bao cảm hứng sáng tác và trở thành đề tài ý nghĩa cho biết bao tác giả. Kháng chiến đi vào các bức tranh, các câu ca, bài hát và trở thành trung tâm của nhiều tác phẩm văn học lúc bấy giờ. Bài thơ Ngọn Quốc kỳ của Xuân Diệu, truyện ngắn Làng của Kim Lân, Trường ca sông Lô (1947) của Văn Cao ca ngợi chiến thắng sông Lô hay bức tranh Người du kích già của Phạm Văn Đôn… là những minh chứng tiêu biểu cho việc kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Quan điểm trên của Nguyễn Đình Thi là một sự đánh giá vô cùng chính xác về nhiệm vụ cũng như nguồn cảm hứng của văn nghệ trong thời chiến. Đồng thời, điều này cũng mang nét tương đồng với chính quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”.
   Tóm lại văn nghệ và kháng chiến có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Qua tác phẩm “Nhận đường” của Nguyễn Đình Thi thì quan điểm đó càng được thể hiện rõ hơn. Văn nghệ cổ vũ tinh thần kháng chiến nhưng chính kháng chiến là động lực và nguồn cảm hứng cho văn nghệ phát triển. Cả hai song hành cùng nhau để tạo nên những giá trị sâu sắc về tinh thần và sức mạnh cho nhân dân ta trong thời kháng chiến.
2.  Về vai trò của văn nghệ đối với đời sống mới
      Văn nghệ là một vũ khí chống lại quân thù chúng ta cùng quây tất cả quanh ngọn cờ dân tộc, viết, vẽ, làm nhạc, kháng chiến trên mặt trận văn nghệ, những mong mỗi sáng tác là một viên đạn bắn vào đầu kẻ thù.” Văn nghệ dùng để “phụng sự kháng chiến”, “văn nghệ là một sức mạnh không kém gì súng đạn”. Như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở anh em nghệ sĩ rằng: "Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong" (Khán "Thiên gia thi" hữu cảm). Văn nghệ là bút chiến, là một thứ vũ khí sắc bén mà trong đó, anh em nghệ sĩ cũng là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Phải thấy được điều đó để phát huy vai trò của văn nghệ cao hơn nữa.
      Văn nghệ tái hiện cuộc sống bằng con mắt của “chính những lớp người sắn tay tạo ra cuộc sống ấy, không bị ngợp trong những luồng sóng ào ạt, thấy được ý hướng của cuộc chuyển biến, bèn chọn lấy những nét chính, những nét điển hình của xã hội đang thay đổi, trình bày thành một hình ảnh chung đúc và  linh động, ai cũng có thể trông rõ.” Bức tranh mà văn nghệ tái hiện, là cuộc sống thực mà người cầm bút đang sống, muốn cho tất cả mọi người cùng trông rõ. Văn nghệ phản ánh cuộc sống thực, không hoa mỹ, lãng mạn. Văn nghệ tìm đến những “vui buồn yêu ghét mạnh mẽ của kháng chiến” để châm ngòi, thắp sáng những cảm xúc ấy trong lòng của mỗi chúng ta, chiếu rọi vào ý thức của mọi người về kháng chiến, “vạch ra con đường phải chọn trong mỗi công việc nhỏ hằng ngày.” Và công chúng sẽ đem cái được phản ánh trong Văn nghệ vào đời thực hằng ngày, “họ sống sự sống của văn nghệ”.
Văn nghệ đem ánh sáng cuộc sống mới đến cho con người, trong mọi mặt, trong hành động lẫn trong cả hiểu biết. Văn nghệ đem ý thức kháng chiến vào cuộc sống hằng ngày, thắp lên trong lòng mỗi người những tình cảm về kháng chiến, làm cho họ gắn liền vào cuộc kháng chiến. Văn nghệ nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, tinh thần đoàn thể trong mỗi cá nhân. Hơn nữa, văn nghệ còn khơi dậy trong lòng mỗi con người niềm tin vào tương lai, tin vào một cuộc sống mới, thôi thúc họ đứng lên chiến đấu “chúng ta đón đợi những bản đàn làm rung động trong lòng, làn yên vui rào rạt hay luồng tức giận tung cánh tay nắm lấy vũ khí”, “chúng ta muốn có những cuốn tiểu thuyết, những tập thơ thay đổi được cả cuộc đời người đọc trong một tia sáng, bùng lên, - làm thành người đẩy chúng ta lên một sự sống trước kia chỉ đứng xa nhìn thấp thoáng.”
Vd: Vợ nhặt, Làng (Kim Lân) khơi gợi trong lòng người đọc niềm tin tưởng, hi vọng vào cách mạng. Thông qua nhân vật Tràng với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện, là một niềm tin vào con đường của cách mạng. Hay nhân vật ông Hai với những ngày tản cư đầy tâm trạng và hào hứng khi nghe tin cách mạng thắng lợi,... Đó là những động lực, khích lệ, nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu của nhân dân. Nhờ có văn nghệ, tinh thần ấy, niềm tin ấy đến với nhân dân gần gũi hơn, rành mạch hơn.
Văn nghệ có vai trò quan trọng trong cuộc sống mới - cuộc sống toàn dân kháng chiến. Văn nghệ là tiếng nói của tình cảm, từ đó nó tác động mạnh mẽ tới những cảm xúc sâu nhất trong lòng mỗi con người. Văn nghệ không chỉ là sức mạnh tinh thần, an ủi, xoa dịu những mất mát mà chiến tranh mang lại mà văn nghệ còn là động lực thắp sáng tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc, là một thứ vũ khí phục vụ cho cách mạng. Chiến tranh mang lại cho con người những khốn khổ, mất mát, văn nghệ lại là “nguồn suối mát” làm mờ đi những vết thương đó, để họ có thêm niềm tin vào tương lai, niềm tin vào sự dẫn lối của cách mạng, từ đó mà bền bỉ tiếp tục kiên cường chiến đấu.
3.     Về trách nhiệm của người cầm bút
Trong hoàn cảnh đất nước đang phải kháng chiến chống ngoại xâm, thì trách nhiệm của người cầm bút càng cần thiết. Việc nêu rõ trách nhiệm của người cầm bút chính là tìm ra được con đường đúng đắn cho văn nghệ.“Sống đã rồi hãy viết”. Đó là lời tuyên ngôn của Nam Cao về nghệ thuật, cụ thể hơn là về nhiệm vụ của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn muốn sáng tạo nên tác phẩm thì cần phải “sống”. “Sống” ở đây có nghĩa là trải nghiệm, tiếp xúc với cuộc đời, xã hội một cách tích cực. Vì tác phẩm là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Vì vậy, chỉ có lăn xả vào cuộc sống, am hiểu cuộc sống, nhà văn mới có thể sáng tạo ra tác phẩm văn học.
Nguyễn Đình Thi cũng như nhiều văn nghệ sĩ khác, ý thức được trách nhiệm thiêng liêng của nhà văn với dân tộc. Người nghệ sĩ phải cùng sống, cùng chiến đấu với dân tộc mới có thể sáng tạo nên tác phẩm. Vậy nhà văn phải sống sao cho đúng? Đó chính là phải sống như những gì Nguyễn Đình Thi đưa ra trong tiểu luận của mình: “Sống được cuộc sống kháng chiến của dân tộc, hiểu được hướng đi tới của xã hội ta hiện thời, cảm xúc được cảm xúc mới của kháng chiến”. Như vậy, nhà văn cần phải trực tiếp tham gia vào đời sống kháng chiến của dân tộc, có chung cảm xúc với toàn dân tộc. Bên cạnh đó, người cầm bút “cần một lập trường là cần cho tất cả đời sống mọi mặt và mọi lúc”. Người nghệ sĩ cần sống hết mình, “phải làm sao sự sống ấy biến thành máu thịt của mình”.
Hành trình nhận đường của người cầm bút là hành trình đi từ “thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”, từ “chân trời của một người đến chân trời của mọi người”. Hay nói cách khác, đó là lúc nhà văn phải từ bỏ cái tôi cá nhân mà hòa nhập vào với cộng đồng, đem tài năng phục vụ cộng đồng. Để làm được, nhà văn cần phải tiến hành sự “lột vỏ” trong tư tưởng, nhận thức và quan niệm. Tuy nhiên, việc này không hề đơn giản mà nhiều khi đau đớn, cần một thời gian dài. Nguyễn Đình Thi đã chỉ cho chúng ta thấy những thử thách, khó khăn mà người nghệ sĩ sẽ phải trải qua. “Làm thế nào chúng ta tìm được tâm hồn những lớp nhân dân đông đảo đang chiến đấu khắp mặt, làm thế nào sống được những tình cảm ý nghĩ của những lớp người xưa nay xa cách hẳn ta, làm thế nào xóa bỏ những nếp sống đã thành thân thể chúng ta mà không giết mất chúng ta, làm thế nào trở thành con người của một tầng lớp khác để sống cuộc sống của họ?”. Những vấn đề mà tác giả đặt ra cũng là những vấn đề thực sự đáng suy ngẫm cho giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ đều có những sáng tác trước Cách mạng, tiếp thu nền tri thức Tây học, và là thành viên của phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn. Họ chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa đề cao cái tôi cá nhân. Họ tìm kiếm cho mình một thế giới riêng, thoát li cuộc sống. Hàn Mặc Tử tìm về tôn giáo để quên đi nỗi đau của mình. Chế Lan Viên khao khát một “tinh cầu giá lạnh” để trốn tránh thế nhân. Người ở lại thì tâm trạng sầu buồn vạn cổ như Huy Cận. Các nhà văn, nhà thơ ấy đã quen viết về hạnh phúc cá nhân, về nỗi lòng riêng tư. Vì thế, chính họ sẽ trở nên lúng túng, ngượng ngập trước yêu cầu phải thay đổi quan niệm, ngòi bút của mình. Họ sẽ phải tập hòa nhập lại với cộng đồng, tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp, viết những điều chưa quen,... điều đó dễ dẫn đến sự giả dối trong cách sống cũng như trong sáng tác, mà nói theo Dostoievsky là “một trò đùa trá hình”. Tác giả đã dẫn ra một biểu hiện cụ thể của sự trá hình ấy: “đem những tình cảm, những ý nghĩ, những lời nói kiểu trước đây năm mười năm còn sót rễ trong ta mà đem gán cho anh Vệ quốc, bà cụ già áo chàm Việt Bắc hay anh thanh niên làng trong cuộc sống hiện thời”. Cả Nguyễn Đình Thi và toàn dân tộc đều sợ sự trá hình ấy, nhất là sự trá hình trong văn chương, nghệ thuật. Và tác giả đã đặt ra một câu hỏi thực sự đáng suy ngẫm: “Làm thế nào sống được sự sống thực của nhân dân ta lúc này?”.
Tuy lo lắng trước những hạn chế đó, Nguyễn Đình Thi cũng bộc lộ niềm lạc quan và tin tưởng vào những nghệ sĩ của đất nước. Ông tin vào sự nhạy cảm của người nghệ sĩ trước cuộc sống. Tác giả đã chỉ ra rằng, muốn giải quyết được câu hỏi trên thì các nhà văn, nhà thơ phải để cho “cuộc sống kháng chiến đã thấm qua ý thức, vào đến từng ánh nhìn, tiếng cười, câu nói, giọt nước mắt, cái bắt tay, đem lại một thái độ tự nhiên trong cuộc đời mỗi giây mỗi phút, bấy giờ mới có tác phẩm văn nghệ”. Người nghệ sĩ phải lăn xả vào cuộc kháng chiến với tất cả những gì mình có, sống tích cực và không ngừng nhận ra và tiếp thu những điều tinh vi mà chân thực của nhân dân, đất nước. Đến khi đó, ngòi bút của nhà văn mới có thể hướng đến cộng đồng, người nghệ sĩ mới sống cùng dân tộc.
4.     Hướng đi của văn nghệ trong chặng đường sắp tới
Cách mạng tháng Tám nổ ra đã thổi bùng lên ngọn lửa kháng chiến trường kì kháng Pháp của dân tộc ta, đồng thời mang theo nó là sự đổi thay về ý thức hệ trong mọi tầng lớp. Nhân dân hồ hởi tham gia kháng chiến, mọi người đều cố gắng góp công sức cho công cuộc kháng chiến lâu dài và xây dựng đời sống mới. Trong bối cảnh đó, giới văn nghệ sĩ cũng bắt đầu lao mình vào một cuộc "lột vỏ" đầy khó khăn và đau đớn.
Nhận đường – nhận ra con đường đi mới cho giới văn nghệ, con đường sáng tác mới và đúng đắn hơn – có lẽ, Nguyễn Đình Thi nhìn lại một chặng đường văn nghệ đã qua, ông nhận ra những "lầm lạc" mà một thời văn nghệ chìm đắm trong nó bằng những cá nhân, bi ai và tuyệt vọng. "Văn nghệ lúc ấy, đã sướt mướt khóc nỗi buồn thảm của con người một mình, chỉ biết có mình, tự quây lại trong một hàng rào kín mít, trốn tránh hành động, - tôi sợ những cái tôi làm giới hạn mất những cái tôi có thể làm rồi lấy cớ là sống cho đến hết mực sự sống của riêng mình, miệt mài đi tìm những vị lạ trong thuốc độc quái gở, trụy lạc, bệnh tật, cho đến lúc không còn gì kích thích nổi những tâm hồn đã cạn ráo, chán chường thì phục xuống đi tìm những bóng tối huyền bí, cầu xin một bàn tay độc tài sai bảo,..." Đó là những cái tôi buồn chênh vênh, mặc cảm về thân phận nhỏ bé, cái buồn của những con người tài từ, trí thức đứng giữa vận mệnh đất nước chao đảo, chỉ còn biết cúi đầu thở than: "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa". Ngay cả việc ao ước một "tinh cầu giá lạnh" để thắp nỗi cô đơn, lẩn tránh thực tại, để mình ta miên viễn trong "xứ tôi", người văn nghệ thu hẹp dần mình vào cái cõi riêng mình, trong khi ngoài kia cuộc sống vẫn là những tiếng kêu than đau khổ, nhưng người nghệ sĩ với tiếng than van của riêng mình, còn nghe gì được nữa đâu? Nguyễn Đình Thi đã gay gắt phê phán thứ văn chương "vị kỷ" đó chỉ là "tiếng lẩy bẩy của bọn nhà văn cá nhân lẫy lừng ngày trước", đó là thứ tiếng nói của cái tôi yếu hèn. Văn nghệ trước khi tìm thấy ánh sáng của cách mạng là thứ văn nghệ hạn hẹp, thứ văn nghệ của cá nhân, ích kỷ và đồi bại. Một đôi lần thay đổi, thì văn nghệ cũng chỉ nhìn thấy được "bóng dáng chàng chinh phu, nét mặt đăm chiêu, gót giầy mòn vơ vẩn lê khắp hải hồ" tựa những bóng ma, những cái xác không chút hơi thở, sức sống. Nào đâu những chàng chinh phu "chưa trắng nợ anh hùng – hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm, rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm, bụi trường chinh phơi bạc áo hào hoa". Nào đâu những chàng trai đất Hà Thành đi lính chinh phu "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Cá nhân, lãng mạn gày gò, thứ  tình cảm "tiểu sư sản" làm chết mòn khí thế phải vứt bỏ đi, để dọn đường cho một đời sống mới đang lên đầy hứng khởi và căng tràn nhựa sống hơn. Trong thời điểm ấy, có lẽ phần lớn giới văn nghệ sĩ đều tán đồng quan điểm của Nguyễn Đình Thi, chẳng thế mà sau đó, biết bao nhiêu tác phẩm với chủ đề kháng chiến ra đời, rạo rực, hồ hởi với cuộc sống mới mang tinh thần cộng đồng. Anh nông dân qua Đôi mắt của Nam Cao tràn ngập hứng khởi, niềm vui cách mạng. Đâu còn thấy những kiếp người bèo bọt, những tiếng kêu lầm than tuyệt vọng, bế tắc của những người nông dân cô khổ. Thế nhưng, việc phê phán, chỉ trích những nhà văn "chủ nghĩa cá nhân" của Nguyễn Đình Thi chưa hẳn là hành động đúng, bởi lẽ hoạt động cách mạng là hoạt động chính trị, còn văn chương thuộc địa hạt của văn nghệ, là tiếng nói của nghệ thuật, của tâm hồn. Nghệ thuật có tiếng nói riêng của nó, bắt nghệ thuật phát ngôn cho chính trị là một quan điểm hết sức hạn chế.
Trong bối cảnh xã hội đang thay đổi từng ngày, văn nghệ không được phép đứng yên, nó cũng phải vận động theo trục vận động chung của toàn bộ sự sống. Nguyễn Đình Thi đã chỉ ra biết bao nhiêu con người đã và đang hòa mình vào cuộc sống mới sôi nổi và nhiệt thành. Anh lính xa nhà, da vàng bủng beo vì ở rừng thiếu thôn vẫn lạc quan yêu đời, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Anh nông dân tản cư đốt cả nhà cửa của mình không chịu để giặc chiếm đóng; anh trí thức cũng hòa mình vào dòng kháng chiến đang chảy trôi trong từng mạch máu của nhân dân, anh công nhân Hải Phòng rồi một ngày cũng lên đường "Nam tiến". Mỗi gương mặt tiêu biểu cho một giai cấp, toàn bộ nhân dân, hàng vạn con người đã xuống đường tranh đấu, đã sắn tay góp sức xây dựng đất nước. Còn anh, nhà văn nghệ, anh ở đâu? Con người mới đã sống dậy, văn nghệ muốn vẽ chân dung anh ta thì văn nghệ cũng nên thay bút đổi mực đi thôi. "Vứt đi những thứ văn nghệ ngòn ngọt yên trí bầy ra sự phè phỡn thỏa thuê hay cay đắng chất thuốc độc của bệnh tật, quanh quẩn vài tình cảm gày gò của cá nhân co rúm lại". Không thể để văn nghệ "ru ngủ" ta trong mớ cảm xúc gày gò riêng ta nữa, văn nghệ phải có một "tia sáng", "bùng lên" và "đẩy chúng ta lên một sự sống trước kia chỉ đứng từ xa thấp thoáng". Có nghĩa là văn nghệ phải là "người dẫn đường", phải tiên phong cho những đổi mới, là "nguồn sáng" cho sự sống mới này. Điều đó yêu cầu nhà văn nghệ phải đi vào "nhân dân kháng chiến" để tìm sự sống ấy. Anh phải "kiếm tài liệu cho đúng, vẽ những nhân vật cho hệt; xây dựng những điển hình cho linh động,...". Nhà văn phải thâm nhập vào đời sống thực tế, phải sống đời sống của nhân dân kháng chiến thì mới tìm được sự sống cho văn nghệ. "Chúng ta phải đi nhiều, thấy nhiều, trong những bước đầu chập chọang sáng tác." Và công việc đó phải "nhanh chóng lên" bởi vì "chúng ta đã chậm trễ". Khi cuộc sống ngoài kia đã thức dậy ồn ã, đã hoạt động những cơ chế mới thì ở trong này, văn nghệ vẫn ngủ yên trong hồn nghệ sĩ, người chưa theo kịp thời đại, chưa hòa được hơi thở, cảm xúc của thời đại. Và chậm trễ nữa là bởi cách mạng sắp trưởng thành mà văn nghệ bây giờ mới chập chững bước đi.
Nguyễn Đình Thi, trước sự đổi mới của cuộc sống, đã khuyến khích văn nghệ sĩ hãy cứ "mạnh bạo sáng tác". Không cần phải băn khoăn tìm đường cho văn nghệ nữa, vì đường sáng đây rồi, là ánh sáng, là lí tưởng cách mạng, là cuộc sống kháng chiến. Người nghệ sĩ phải mau chóng hòa mình vào cuộc sống mới. Những phút bỡ ngỡ, ngượng ngập rồi sẽ qua, tất cả phải cùng hòa vào một dòng sống chung. Người nghệ sĩ ngại gì đầu sóng ngọn gió, ngại gì vứt bỏ những tư tưởng cá nhân cũ rích kia, hãy cứ lăn xả vào một cuộc sống mới đang bắt đầu. Và ở đó, Nguyễn Đình Thi tin tưởng, rằng "không lâu nữa, văn nghệ mới nước ta sẽ vững và lớn." Tuy nhiên, văn nghệ  mới của chúng ta có vững và lớn như điều Nguyễn Đình Thi tin tưởng hay không? Nhìn vào chặng đường đã qua của văn nghệ, chúng ta, những người hậu bối, có thể thấy rõ được kết quả của việc đổi mới quan điểm nghệ thuật theo hướng "kháng chiến hóa văn nghệ" ấy.

  III.  Tổng kết
Nhận đường của Nguyễn Đình Thi ra đời vào thời điểm đất nước có nhiều biến động, vừa bước ra khỏi cuộc Cách mạng tháng Tám lịch sử, đất nước trở mình với biết bao nỗi đau, khó khăn nhưng cũng đầy hân hoan trước làn gió mới của cách mạng. Văn nghệ hồ hởi bước sang khúc ngoặt mới và Nhận đường giống như một bản tuyên ngôn nghệ thuật mới cho một thời kì đang mở ra.
Trong bối cảnh xã hội đổi mới, văn nghệ cũng phải cựa mình thay đổi. Nhận đường đã vạch rõ nhiệm vụ, vai trò, và trách nhiệm của văn nghệ cũng như chỉ ra con đường đi sắp tới của văn nghệ. Văn nghệ phải phục vụ kháng chiến, phản ánh cuộc sống và đồng thời, người cầm bút phải nắm rõ vai trò của văn nghệ để phát triển ngòi bút, dùng bút lực để đấu tranh. Vạch rõ mối quan hệ giữa cuộc sống và văn nghệ là mối quan hệ tương hỗ, Nguyễn Đình Thi cho chúng ta thấy một con đường đang mở ra trước mắt giới văn nghệ: đi theo tiếng gọi của đời sống, kháng chiến.
        Đặt vào bối cảnh xã hội năm 1945 – 1954, Nhận đường vẫn là một sự biến đổi lớn lao trong giới văn nghệ sĩ, nó là kim chỉ nam cho con đường văn nghệ sắp tới. Nó cho thấy sự thay đổi trong ý thức của những người cầm bút, đồng thời chỉ ra hướng đi cho giới nghệ sĩ đang loay hoay tìm đường đi trong bế tắc. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách khách quan, quan điểm về văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cũng như các văn nghệ sĩ thời kì này có nhiều mặt hạn chế. Đánh đồng văn nghệ với chính trị, đem văn nghệ phục vụ cho chính trị đã phần nào kìm hãm sự phát triển của văn nghệ theo đúng con đường mà đáng lẽ nó phải đi. Văn nghệ cần đi vào đời sống, cần phản ánh mọi ngóc ngách của đời sống, nhưng không thể bắt văn nghệ chỉ nhìn vào một phía của kháng chiến, văn nghệ cần có đời sống riêng của nó.

          Tài liệu tham khảo

1.            http://nguoixunghekiev.vn/serviceView_353_356_10529.html

2.            Nhận Đường, Nguyễn Đình Thi, Văn nghệ số đầu tiên, tháng 3 – 1948

·         Bài thuyết trình gồm 4 thành viên
1.            Lã Thị Hồng Thuấn                                        
2.            Bùi Quang Long                                            
3.            Phạm Thị Thùy Trang                        
4.            Nguyễn Thị Hoàng Linh                                
GVHD: PGS.TS. Võ Văn Nhơn
ThS. Nguyễn Thị Phương Thúy

Ø  Bài viết được đăng ngày 21/3/2014

 


 

Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét