TD- Tác gia Tản Đà


ÔN TẬP
TÁC GIA TẢN ĐÀ
(1889- 1932)
·      Dàn ý
1.     Giới thiệu về tác gia Tản Đà
2.     Tản Đà nghệ sĩ tự do, lãng mạn
3.     Người tài tử trong xã hội tư sản hóa
3.1.         Tính dân tộc và hiện đại; tính truyền thống và cách tân qua nhà thơ Tản Đà
3.2.         Văn chương hành đạo và văn chương tài tử
4.     Ngông
5.     Đa tình
6.     Vui chơi với thơ, rượu
7.     Sầu và Mộng
8.     Tư tưởng yêu nước trong thơ Tản Đà
9.     Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà
9.1.         Văn phong
9.2.         Ngôn từ
9.3.         Thể loại
10.            Chất ca dao trong thơ Tản Đà
10.1.    Chất trữ tình trong thơ Tản Đà
10.2.    Tính dân tộc trong ngôn ngữ thơ Tản Đà




·      Tản Đà

1.     Giới thiệu về tác gia Tản Đà
Trong số các thi gia VN hiện đại và thuộc lớp tiên phong, TĐ là một nhà thơ đúng nhất tâm hồn VN; ông đáng làm tiêu biểu cho lớp người trung trực nước ta; bao nhiêu những điều ao ước, những nỗi băn khoăn, những sự chán nản của hạng người này, người ta đều thấy trong thơ ông. Nào là tình yêu, nào là những cách ăn uống chơi bời, nào về những sự hoài nghi đối với Trời, đối với tạo vật, nào là những thói ngông nghênh của hạng người này, đều thấy diễn tả trong thơ rất trong trẻo, rất giản dị của TĐ.
Tản Đà là con người của buổi giao thời, ông thuộc thế hệ cuối cùng của nền khoa cử Hán học VN. Thấm đẫm nền văn hóa truyền thống, TĐ thông thạo văn thơ phú lục, văn chương chữ Hán, thông thạo cả từ khúc Trung Quốc, am tường và điêu luyện ca trù, thơ song thất lục bát, ca lý truyền thống,… Ông soạn và và soạn thành công một số vở tuồng, chèo nhưng đồng thời cũng là một số nhà văn đầu tiên thể nghiệm viết tiểu thuyết, và văn xuôi nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ, là người đỡ đầu tích cực cho những nhà văn trẻ đương thời. Ở TĐ còn mang cả dáng dấp của những phong lưu tài tử một thời, cách tân, hiện đại hóa vô cùng táo bạo. Vì thế Hoài Thanh đã thốt lên “Tiên sinh gần chúng tôi lắm” và với một con người và một di sản văn học như vậy nên có nhiều công trình nghiên cứu viết về Tản Đà. (1)  TĐ- ảo thuật gia về chữ nghĩa, giai âm và hình tượng/5,6
·        Những cột mốc quan trọng cuộc đời Tản Đà
-         Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (sinh năm 1889), quê ở huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Cha của TĐ là cụ Nguyễn Danh Kế xuất thân từ dòng họ khoa bảng quý tộc lâu đời, mẹ là Nhữ Thị Nghiêm là một cô đào tài sắc.
-         1892, khi Nguyễn Khắc Hiếu lên 3 tuổi thì cha qua đời. Sau một năm mẹ ông  trở lại quê nhà làm lại nghề đào nương, điều này đối vơi dòng họ là nỗi nhục lớn, đồng thời để lại Tản Đà một dấu ấn chua xót, khó phai. TĐ cùng ba anh chị em sống chung dưới sự cưu mang của Nguyễn Tái Tích (người anh cùng cha khác mẹ).
(TĐ thuở nhỏ đã nổi tiếng là đa tình. Năm 19 tuổi TĐ yêu một cô gái con ông phán, do muốn cưới được cô gái đó TĐ đã ra sức cố gắng học  mong đậu được bằng cử nhân. Nhưng thi mấy lần đều rớt, nên cô gái đó đã lên xe hoa)   
-         1862, Nguyên Khắc Hiếu lấy vợ năm 27 tuổi, cuộc sống ngày càng khó khăn, không làm quan được và cũng không muốn làm công chức cho Pháp. Ông quyết định làm một nghề mới  là làm văn, làm báo chuyên nghiệp.
-         1915, gửi bài cho Đông Dương tạp chí, viết bút kí Nhàn tưởng gây được sự chú ý của độc giả. Tờ báo đã mở mục “Một lối văn nôm”, sau đổi thành “Tản Đà văn tập”.
(những tác phẩm lần lượt ra đời như: Khối tình con 1 (1916), Giấc mộng con (1917), Thề non nước (1920) sau khi ông đi Huế trở về)
-         1921, Ông đã trở thành nhà văn độc lập và được mời vào chủ bút báo Hữu Thanh, cơ quan ngôn luận Bắc kỳ Công thương Ái hữu hội.
(Ông làm một thời gian xin từ chức lập Tản Đà thư cục)
-         1925, cả nước nổi lên phong trào thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh, đều đó đã kích thích lòng yêu nước của ông, TĐ quyết định mở tờ An Nam tạp chí.
-         1927, ông đi Nam kỳ, định mở An Nam tạp chí nhưng không xin được giấy phép. Một năm sau ông lại ra Bắc.
(Những tác phẩm của ông được viết trong giai đoạn này: Còn chơi (1921), Truyện thế gian 1, 2 (1923), Khối tình con 3 (1932),…)
-         1934- 1939, cuối đời
+ Trợ bút cho Văn học tạp chí sau khi An Nam tạp chí bị đình bản.
+ Viết mướn, dạy quốc văn, xem bói, dịch Liêu trai chí dị, chú giải Truyện Kiều
+ Thiếu tiền thuê nhà, bị tịch thu đồ đạc, phải dọn ra ngoại thành Hà Nội. Sau đó ông phát bệnh và mất ngày 7/6/1939.

2.     Tản Đà nghệ sĩ tự do, lãng mạn
Đọc thơ của Tản Đà ta thấy một tư tưởng rất riêng, ông theo chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa vật chất, tôn thờ tình yêu, ham chơi, thích uống rượu và ăn ngon, mỗi khi ông không được như ý thì tư tưởng ngông cuồng được thể hiện rõ nét… Tất cả để nói lên cái tự do của một nghệ sĩ nhưng rất lãng mạn trong tình yêu.
Ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của người nghệ sĩ tự do, phóng khoáng trong thơ của TĐ. Ông là một thi sĩ có tâm hồn đặc VN, cái tâm hồn phần đông người Việt, tâm hồn hạng trung lưu trong xã hội ta: “làm tài giai ăn chơi cho đủ mùi…” trong bài “Thú ăn chơi” (Tản Đà vận văn quyển I, trang 59) ông có viết:
“Túi thơ đeo khắp ba kỳ,
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng.
Thú ăn chơi cũng gọi rằng,
Mà xem chửa dễ ai bằng thế gian.”
Những dòng trên tỏ ra ông là một thi sĩ thờ chủ nghĩa khoái lạc và người ta thấy ông tha thiết với những “cái thiệt vui, thiệt hay, thiệt điệp, thiệt ngon” nghĩa là với tất cả những cái vui thú về vật chất ở trên đời. Song TĐ vốn chất chứa nhiều nỗi tức tối, phẩn uất trong lòng, nhất là đem sự thi hỏng của mình ra giễu cợt:
“Nguyên tôi…
Sách vở thuộc lòng, văn chương đứng mực.
Thi thế mà bay, thời ai không tức!
Khoa này lại hỏng, thôi thật nằm co.
Trăn lạy Thiên Đế, xin ngài xét cho.”
(Khối tình con I, trang 49)
Đồng thời ông làm thơ là để chơi, để cho khuây khỏa, chứ không còn vui thú gì nữa. Cái giọng chào mừng chúa Xuân đã đến ngày tàn, tóc ông cũng đã hoa râm, ông chỉ còn ôm một mối thất vọng, một mối sầu bao la với những cảnh đổi thay của tạo hóa:
“Chầm chậm ngày xanh bóng nhạn đưa
Xuân sầu hai độ, rối như tơ;
Lao xao nhà vắng chim tìm tổ,
Ý ộp hồ xa ếch đợi mưa,
Rượu hứng them vui không sẵn ban,
Hoa tàn giục nghĩ chẳng nên thơ…”
(Sầu xuân, Tản Đà vận văn, quyển III, trang 27)
Tình yêu nhiều khi như tràn ngập hết cả tâm hồn thi sĩ, làm cho thi sĩ hết thương nhớ vẩn vơ, đến xót thương cả những cô gái có chồng mà chồng xa vắng, hay phận gái không chồng mà vẫn ra công giữ gìn nhan sắc. Tuy vậy, TĐ là một nho sinh nên sự xót thương chỉ thể hiện tinh tế, nhẹ nhàng:
“Đêm thu gió lọt song đào,
Chồng ai xa vắng, gió vào chi đây?”
(Khối tình con I, trang 31)
Cái tình yêu của TĐ là một thứ tình yêu rất đặc biệt; nó là một thứ tình yêu đạm đà, lai láng, không bờ, không bến, có sức lan tỏ, cần san sẻ đến hết gửi thư cho người tình nhân có quen biết, đến “đưa thư cho người tình nhân không quen biết”
“Ngồi buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết bức thư này gửi đến ai
Non nước xa khơi tình bỡ ngỡ,
Ai tri âm đó? Nhận mà coi…”
(Khối tình con II, trang 56)

Phần nhiều thơ của Tản Đà đều buồn. Thơ tình của ông, là thơ của người khao khát tình yêu và thất vọng về tình yêu; thơ rượu, thơ chơi của ông là của người chán đời, của người phải tìm những thú vui để cho khuây khỏa,… nhưng những điều đó lại nói lên sự tự do, cái ngông cuồng của người nghệ sĩ, thỏa thích với những “thú ăn chơi” và hết mình trong tình yêu. Thơ ông luôn giản dị, trong sáng, lại diễn tả tầm hồn VN đủ mọi vẻ, mọi màu,… đều đó càng minh chứng Tản Đà là một thi sĩ tài ba, một nghệ sĩ tự do và lãng mạn.

3.     Người tài tử trong xã hội tư sản hóa
3.1.         Tính dân tộc và hiện đại; tính truyền thống và cách tân qua nhà thơ Tản Đà
Các sáng tác của TĐ được xem là một điểm giao thời của những vấn đề lý luận văn học sử VN. Xét tổng thể xã hội mà ông sống là một xã hội quá độ, do vậy tư tưởng và sáng tác của TĐ không định hướng theo một lý tưởng chính trị nào mà hướng theo một lý tưởng cá nhân. TĐ thường bộc lộ những phản ứng bất bình thường, mà sức hút vẫn là Nho giáo truyền thống.
·        Tính dân tộc, truyền thống
Trong thơ TĐ không khó gì khi thấy khuynh hướng đạo lý. TĐ sinh ra trong một gia đình Nho lưu, được đào tạo theo Nho học, nên đối với luân lý Nho giáo ông có thái độ kính cẩn sâu xa. Sau này, nuôi mộng dùng cây viết để truyền bá tư tưởng chính là luân lý đạo nho:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Trai thời trung hiếu, đàn bà tiết trinh.
Cuộc nhân thế xoay vần dâu bể,
Mối cương thường ai dễ xem khinh.”
(Khối tình con I- Tiết phụ hành)
Ông làm thơ giáo huấn trẻ lên sáu, lên tám, làm thơ khen liệt phụ Trung Hoa, khuyên thanh niên học hành để trả ơn cha mẹ. TĐ còn tuyên truyền lòng ái quốc. Nhưng ở thái độ thời thế, nên chủ nghĩa ái quốc của ông không vượt sang địa hạt chính trị mà chỉ ở phạm vi luân lý. Ông kêu gọi tình hữu ái:
Trung Nam bắc chị cùng em
Chị em nghe đấy con chim gọi đàn.
Chim kia còn biết gọi đàn,
Chút tình hữu ái chị bàn cùng em.”
(Tản Đà toàn tập, tập I- Tiếng gọi bạn Trung, Nam, Bắc)
Như vậy, tư tưởng đạo lý của Tản Đà đi theo văn sĩ Nho gia xưa, song mở rộng ra khỏi những công thức muôn thuở, hướng vào hoàn cảnh đổi thay của xã hội bấy giờ nên có nhiều phong phú hơn.

Tính hiện đại và cách tân
Nhìn tổng quát, có thể khẳng định: TĐ nối tiếp hàng loạt chủ đề, đề tài truyền thống, đồng thời mở rộng ra những sắc thái mới và luôn luôn tìm ra những cách nói mới vừa có sự gần gũi với các tác giả nổi danh trong truyền thống, nhưng cũng phát hiện nhiều giọng điệu sắc thái cách tân. Ông là người đầu tiên trong văn chương Việt nói đến tình yêu ngoài hôn nhân, hơn thế còn đối lập với hôn nhân:
“Nhác thấy không đành mắt
Cho nên tiếc của đời
Chẳng qua duyên nợ phượu
Gìn giữ luống công tai…”
Thi hỏng, nếm trải những bi kịch xưa nay không ít. Trần Thế Xương đã viết đều đó thật thắm thía. Nhưng TĐ thì lại khẳng định và đe dọa hùng hổ đến nực cười:
“Bởi ông hay quá, ông không đỗ
Không đỗ, ông càn tốt bộ ngông.”
(Thơ Thi hỏng- Tản Đà)
Là người am hiểu sâu sắc thơ ca truyền thống. TĐ sử dụng một cách điệu nghệ của các thể loại quen thuộc đã trở thành cổ điển như: thơ thất ngôn bát cú, thơ thất ngôn trường thiên, hát nói, lục bát… Ông cũng đã huy động rất nhiều thể loại truyền thống của văn học viết, TĐ đã hoàn thiện chúng đã tạo nên những giá trị cổ điển. Những bài từ toàn bích như: Cảm thu tiễn thu, Tống biệt, Mỵ Châu Trọng Thủy; những bài hành như: Thu khuê oán,… xứng đáng là những tác phẩm mẫu mực.
Tản Đà cũng đã tạo ra một giọng dân ca riêng của mình. Rất nhiều bài ca dao của TĐ đã trở nên những tác phẩm “văn học dân gian” được lưu hành khá rộng rãi trong quần chúng bình dân. TĐ cho rằng, bất cứ sáng tác thơ ca nào với tư cách là nghệ thuật ngôn từ, đều bị chi phối những quy luật về ngữ âm, ngữ pháp, cú pháp của một ngôn ngữ cụ thể. Trong thi nghiệp của mình, TĐ đã một mình làm được “cơn gió lạ”. Nối dài một truyền thống sáng tạo, ông đã đưa lại cho nền văn học VN thời cận đại hàng loạt những sáng tác mẫu mực.

3.2.         Văn chương hành đạo và văn chương tài tử
 Văn chương hành đạo của TĐ chính là Nho học và yêu nước. “Văn có ích” là trong văn chương mang tính giáo hóa “phải đạo”; văn chương yêu nước là phải phục vụ sự nghiệp cứu nước. Tiêu chuẩn gọi là yêu nước đối với TĐ là tấm lòng, là đạo đức chứ không phải là hành động, càng không “lấy sự quá khích làm quý”. Ông muốn dành những vấn đề nghiêm chỉnh như yêu nước cứu đời cho tản văn mình.
 Tuy nhiên, sự xung đột gay gắt tồn tại bên trong Tản Đà mà mâu thuẫn lớn nhất giữa nhà nghệ sĩ và nhà tư tưởng-đạo đức, là môn đồ nhiệt thành của Khổng Tử cố níu kéo những giá trị cũ trong một thời đại mới, giữa phương thức tư duy và tư duy nghệ thuật đặc thù của “loại hình tác giả nhà Nho” và những yêu cầu của một thời đại văn học mới. Cuộc xung đột đó không chỉ chi phối hệ thống nội dung tư tưởng trong sáng tác của ông mà quan trọng hơn, còn chi phối cả phương thức cảm thụ, cái nhìn về thế giới và phương thức phản ánh những mệnh đề nghệ thuật, hay nói cách khác phương thức tư duy nghệ thuật của ông. Là nhà nghệ sĩ, Tản Đà kế thừa hàng loạt truyền thống lớn của văn chương Trung đại, những truyền thống mà nếu tìm được cơ hội có thể trở thành những khả năng phát triển khác, mở ra những con đường khác cho văn học hiện đại.(2) Phê bình văn học- Tản Đà
·        Thuyết thiên lương
Tản Đà đã có hoài bão làm nên một nhà triết học, trong bức thư của người tình trong mộng là Chu Kiều Oanh ở cuối quyển Giấc mộng con. Không chỉ hoài bão suông, ông đã khảo lự, rồi viết ra bài Thiên liêng in trong quyển Khối tình bản chính. Ta có thể hiểu thuyết Thiên lương của ông như sau:
Thiên lương là cái hay, cái tốt trong lòng người, người ta ngay lúc thụ sinh. Loài người khác với các loài vật khác là vì có cái thiên lương ấy. Thiên lương có ba tính chất:
1)    Lương tri là cái tri giác về bên hay, để cảm biết về sự hay.
2)    Lương tâm là cái bụng dạ về bên hay, để kiệp nhận ra sự hay.
3)    Lương năng là cái giỏi về bên hay, để làm theo các sự hay.
Đó là nguyên chất của thiên lương, ba chất đó đều hài hòa là thiên lương trọn vẹn.
Từ đó ông suy rộng ra, nói bao nhiêu việc hay trong thiên hạ, ddeuf do cái vận động của thiên lương các đấng thánh hiền, hào kiệt, liệt nữ trung thần, và bao nhiêu việc hay ở trong thiên hạ. Thực giả của thiên lương thật quý trọng không biết chừng nào.
(*Tản Đà triết học- Trúc Khuê Ngô văn Triện)

4.        Cái “Ngông” trong thơ Tản Đà
Nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng: “Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái “Ngông” của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi, “ngông” của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của TĐ đã thể hiện trong "Hầu Trời” là một cái tôi, “ngông” rất lạ:
“Thiên tào tra sổ xét vừa xong,
Đệ sổ lên trình Thượng Đế trông:
“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới về tội ngông.””
Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận.Và cái ngông ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Tác giả đọc thơ rất tự tin, thể hiện tài năng của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông.
“Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơi.”
Tản Đà khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với TĐ, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua. Đặc biệt dường như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó.
Ngông là thái độ thường hay có ở các nhà nho ngày trước- một thái độ ưa lập dị, chuộng những hành vi khác thường, chứng tỏ một tâm hồn nhiều kiêu ngạo, ưu vui đùa, nhiều tưởng tượng. Cái ngông của TĐ là kết quả của tính tự cao nhưng nhiều thi vị, không nghênh ngang khó chịu. Điều ấy cũng dễ hiểu, vì cái ngông của TĐ có nhiều nguyên nhân: cô đơn, sầu, bi quan. Cái ngông ấy là dịp để khuây khỏa, một lối thoát chẳng khác nào là mộng mị. Nó chẳng khác nào là cái cười cợt của nhà thi sĩ Nguyễn Công Trứ trong bài Vịnh cây thông.

“Ngồi buồn muốn trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.”
Vì ngông nên tự cho mình là trích tiên, có đêm lên hầu trời đọc thơ cho Trời nghe (Hầu trời), rồi lại viết thư cho Trời hỏi Hằng Nga làm vợ, làm cho Trời cũng phải bật cười:
“Tình riêng trăm ngẩn mười ngơ,
Ngồi buồn lấy giấy viết thơ hỏi Trời.
Xem thơ Trời cũng bật cười,
Cười cho người hạ giới có người oái oăm.”
Ngông là cách sống kinh ngạc, làm trái ngược đời để tỏ rằng mình tỉnh khi kẻ khác say, để chứng minh rằng mình thanh bạch. Sau Tú Xương, có lẽ TĐ là một nhà thơ ngông hơn cả trên đàn văn giao thời hai thế kỉ XIX- XX:
“Văn chương thời nôm na,
Thú chơi có sơn hà,
Ba Vì ở trước mặt,
Hắc Giang bên cạnh nhà”
(Tản Đà)

Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Tản Đà làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, đó là những ấn tượng đặc biệt không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.

5.        Đa tình trong thơ Tản Đà
Tản Đà  là người đa tình nhưng không phải là người có may mắn gặp giai nhân. Ông là người hay nói về mình nhưng những thiên tình sử của nhà thơ mà ta biết trong thực tế được khúc xạ vào văn chương thành những giấc mơ yêu thương, qua đó ta biết được quan niệm của ông về tình yêu, thành một cách nhìn thế giới theo lăng kính ái ân, thành những xúc cảm tái tê về số phận tài sắc. Cả ba mặt làm cho văn chương Tản Đà có một phong cách không trộn lẫn, nó mở đầu cho một khuynh hướng văn học mới, phản ánh sự thay đổi của thời đại.
Trước sự thay đổi của thời đại, nhà Nho Tản Đà hay nói về tình yêu, đem bản thân ra làm nhân vật si tình, bộc lộ ra những khát khao, say mê của tình yêu. Tuy tình yêu của ông có phá lễ giáo, có mang màu sắc tư tưởng cá nhân tư sản, vẫn không ra khỏi khuôn khổ tài tử giai nhân. Nó không đưa đến chống đối lễ giáo phong kiến mà cũng không đòi hỏi giải phóng phụ nữ.

·        Cảm thương cho số phận tài tử, giai nhân
Tản Đà sống trong tâm trạng của “khách phong lưu”, “bậc tài danh” của thời đại trước. Khác với những nhà Nho chính thống thường kính đáo, thì Tản Đà rất hay nói về mình. Trong thơ TĐ thường thổ lộ những cái không may: nghèo túng, thiếu tri âm, bất lực, thất bại… Nhưng bao trùm tất cả là than thở về kiếp người tài tử:
“Đời chưa duyên kiếp ai xanh mắt.
Khách chẳng công danh cũng bạc đầu.
Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước,
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu.”
(Khách giang hồ)

Trong cuộc đời, tài tử và giai nhân được có tài, có sắc là được Tạo hóa ưu đãi, nhưng số phận của họ thì không tương xứng với cái họ có, mà vì có tình, họ lại cảm thấy điều đó sâu sắc nên đau khổ, ê chề hơn.
Người con gái “tóc xanh, mây cuốn, má đỏ hoa ghen”nhưng lại không gặp người tri âm tri kỷ. Họ thành người kỹ nữ đem “mắt xanh trắng đổi lầm bao khách tục”. Không chỉ có người kỹ nữ, cho đến cả người “tài hoa”, “tiết liệt”, “đài trang” cũng phải chịu cái kiếp chung là bị vùi dập.

“Câu nam hải, thuyền chìm sông Thúy Ái,
Sóng Tiền Đường, cỏ áy bến Ô giang.”
(Đời đang chán)
Người đàn ông có tài cũng chẳng hơn gì. Họ mơ ước “Đường mây bay bổng cánh hồng”, “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi” nhưng sự nghiệp lại không thành. Với bản thân, TĐ than thở:

“Sự nghiệp ngàn năm xa vút mắt
Tài tình một gánh nặng trên vai”
(Năm hết hữu cảnh)
Và ông cảm nhận cái đó như là một nổi đau khổ, nổi nhục nhã có tính số kiếp chung. Cái tôi tài tình, con người tài tử giai nhân, sống trong bài của số mệnh, trong cuộc đời dâu bể là những cảm xúc cũ, những suy nghĩ cũ. Nhưng trong thực tế người thị dân ra đời gặp tâm trạng chung của cả dân tộc vừa thất bại của đẳng cấp Nho giáo đang thất thế, của giai cấp tư sản ốm yếu, bất lực thì công việc TĐ làm là tìm lại và tân trang cho bộ mặt của người trí thức của đô thị phong kiến.

·        Lăng kính phong tình ái
Cái đa tình của Tản Đà biểu hiện thành một nổi lòng luôn luôn cô đơn, luôn luôn sầu, luôn luôn khao khát tình cảm, điều mà ta gặp trong văn chương ông những bước đi đầu. TĐ muốn giải sầu, muốn lấp trống của tâm hồn bằng tình cảm của người tri kỷ nhưng người tri kỷ của TĐ là người phụ nữ. Cái nhìn ân ái, phong tình chi phối sức tưởng tưởng làm cho TĐ thấy mọi người, mọi vật đều như đang ở trong một tâm trạng yêu đương. Ta hãy đọc bài thơ Nhớ bạn sông thương của ông.
Cũng xa cách, cũng nhớ thương, chờ đợi. Sầu thương chờ đợi đến “bối rối vấn vương tơ lòng”, đến trách “đôi dòng Đà, Thương chia hai người ra hai ngã”, đến nhắn “Yêu nhau thì họa chữ thương mấy vần”. Và kết thúc bằng một lời nguyện ước rất “phi lí” của những kẻ đang yêu:
“Họa may hà bá xoay vần,
Thương giang, Đà thủy có lần nối nhau.”
Toàn là những là lời tha thiết, những tình cảm đầm thắm làm ta tưởng đây là nổi nhớ nhung khắc khoải của một đôi trai gái bị “chia uyên rẽ thúy” mà phải lưu lạc đến  lưu vực của hai con sông khác nhau. Thật không ngờ đó là bài thơ TĐ gửi cho một Tham tá, bạn thơ, bạn rượu của mình.
Không chỉ là bạn văn chương, những người thật sự than thiết quen biết, nhà thơ mới nói đến lòng nhớ nhung đằm thắm:
“Xa nhau xin hãy đợi chờ,
Gần nhau rồi cũng sớm trưa có ngày.”
(Nhớ bạn Hà Nội)
Ái ân in màu lên tất cả. Một cô hàng cau, một người đánh cá, một người con gái hái dâu, một người vào hàng mua rượu, một người qua đường… trong con mắt nhà thơ đều như đang sống trong sự khao khát yêu đương, trong sự chờ đợi, đều mời mọc, đều trách móc tình tứ, đều làm nảy lên những ý nghĩ vẩn vơ.
“Muốn nói chuyện chơi, không có chuyện,
Kìa đàn con sáo nó sang sông.”
Nhìn mọi người, mọi vật, mọi quan hệ theo một lăng kính ái ân phong tình như vậy, TĐ bộc lộ một thèm khát tình cảm: thiếu tri kỉ, thiếu tình bạn. Không phải TĐ đa dâm, đa dục, nhưng chỉ sống với tình yêu. Cách nhìn phong tình, ân ái của TĐ xóa bỏ một quan niệm thẩm mỹ rất cơ bản của Nho gia. Đời sống xã hội và văn học tư sản đã tác động đến nhà thơ. Nhìn thế giới theo lăng kính ân ái phong tình là một cách nhìn lệch lạc, không giúp nhà thơ phát hiện ra chân tướng sự vật. Nhưng ở TĐ đều đó không những đưa ông xa rời quan điểm thẩm mỹ Nho gia, mà còn đưa ông tiếp thu và phát triển văn học dân gian theo một hướng mới.
(*Trần Đình Hươụ- Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu (trích))

6.        Vui chơi với thơ, rượu
Đối với Tản Đà “rượu” và “thơ” dường như là cứu cánh của cuộc đời. Rượu và thơ là hứng thú thanh cao của các Nho sĩ nhân văn ngày trước, nhưng ở đây đượm màu sắc khoái lạc. Xu hướng ưu khoái lạc và bản tính tự nhiên của Tản Đà, nhưng phần nào nhà thơ cũng bị hoàn cảnh dồn ép đi theo con đường ấy.
“Trời đất sinh ta rượu với thơ,
Không thơ không rượu sống như thừa.
Công danh hai chữ mùi men nhạt,
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ.
Mạch nước sông Đà tim róc rách,
Ngàn mây non Tản mắt lơ mơ.
Còn thơ còn rượu còn xuân mãi,
Còn mãi xuân còn rượu với thơ.”
(Ngày xuân thơ rượu)
Thơ, rượu ở đây không hoàn toàn là những khoái trá vật chất mà phải có nguồn cảm hứng. Nguồn cảm hứng ấy là cảnh vật thiên nhiên, riêng đối với tác giả là núi Tản sông Đà mên yêu muôn thuở. Đặc biệt thơ và rượu đều có thể giải thoát con người ra khỏi trần lụy. say là sống ngoài đời. Để nhìn đời luân chuyển.
“Rượu say thơ lại khơi nguồn,
Nên thơ rượ cũng thêm ngon giọng tình.
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái hình phù du.”
Thơ và rượu khác ở chỗ thơ là một cố gắng của trí thức để nhảy vọt ra khỏi biên giới của thực tại, còn rượu là một trạng thái thụ động của cơ thể. Ta nhớ đến những câu thơ của Hà Nguyên Thạch về tương quan giữa thơ, rượu và cuộc đời.
“Còn những chén rượu sầu lòng chưa uống cạn,
Nên làm thơ còn có nghĩa chờ say,
Lúc say khướt sẽ quay cuồng hoài vọng,
Chạy quanh đời nghe hồn nhẹ như mây.”
(Nguyệt san Tản văn, Sài Gòn 1970)
Ra ngoài đời mới nhìn thấy chân tướng của cuộc sống như Tản Đà đã nhận xét:
“Mảnh hình hài quen giả giá như xưa nay,
Chút sinh tướng lúc này coi mới hiện.”
Hơi men giải thoát con người ra khỏi những câu thúc của trần lụy, của thân thế phù du, tạo cho thần trí cảm giác đồng đẳng tề vật để nhìn suốt đến chân như. Phút thoát nghiệp trong hơi cay là một thứ cứu rỗi của Tản Đà trong trần thế phôi pha, cho nên nhà thơ vừa say sưa, vừa tả cái say sưa một cách say sưa. Âu say sưa cũng là một cách tránh say đắm.
“Trăm năm thơ túi rượu vò,
Nghìn năm thi sĩ, tửu đồ là ai?”
Tản Đà thích rượu vì như các nhà thi bá đời xưa, rượu là nguồn cảm hứng của ông. Rượu là phương tiện thần diệu mê ly để ông ngông với đời: say…
“Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư đời hư vậy, say thời cứ say.
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?”
(Lại say)
Tản Đà đã say, đã sống trọn vẹn trong cái say của mình, cái say ngạo mạn và thách thức. Tản Đà say rượu? Không. Rượu chẳng qua là cớ. Rượu là một trò chơi. Say là một cách chơi. Rượu thể hiện tiếng nói và say cũng là cách nhìn ngắm cuộc đời. Cái say của TĐ, một trong những cái say lừng lẫy nhất trong văn chương VN, đó chỉ là một trong bao nhiêu hình thức chơi độc đáo của Tản Đà.

7.        Sầu và Mộng
·        Tình cảm chán đời và sầu
Tản Đà thường để lộ nỗi bi quan yếm thế không gay gắt, nhưng nhè nhẹ và thâm trằm. Thi sĩ chán đời vì suốt đời thất bại và nghèo túng:
“Như tớ xưa nay vốn vẫn nghèo,
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.
Quanh năm luống những lo văn ế,
Thân thể xem thua chút hát chèo.”
Cái chán chường của thi sĩ càng tang them khi đi đến giai đoạn chót của cuộc đời, nhìn lại đoạn đường đã đi qua, thấy thân thế từ trước đến nay chỉ trôi nổi chẳng ra gì:
“Trời sinh ra tớ kiếp con quay,
Quay tít mù xanh nghĩ cũng hay.
Lăng băng thân thế đi đi đứng,
Nghiêng ngả quan hà tỉnh tỉnh say.”
Suốt bao nhiêu năm lần đận bôn ba vì sinh kế khi trở về cố hương hai bàn tay trắng, túi rỗng mà lòng nặng nhớ thương, thi nhân để cho tâm hồn chìm đắm vào một nỗi bi quan mà phong cảnh quê nhà cũng không làm sao khuây khỏa:
“Bốn phương mây mỏi cánh hồng,
Đường mây bãi tuyết chán lòng tha hương.
Tản Viên bóng gác tà dương,
Gió thu giục khách lên đường về quê.”
Nhưng ngoài cái bi quan về thân thế và kinh nghiêm gây nên, TĐ còn mang lấy bệnh “sầu”. Sầu không phải là chán đời, nhưng là một nổi buồn vô căn cớ, như tuồng thuộc về căn tính của con người. “Từ đội sầu cho đến nay, ngày nào cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà sầu…”. Cái sầu trong thơ TĐ không nguyên chất, tuy đậm đà nhưng chen lẫn với tình, với nhớ nhung, vơi thơ rượu:
“Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn.”
Sầu ấy không bao giờ rời bỏ tâm hồn thi sĩ, nên giữa cảnh xuân tươi thắm, ta vẫn thấy thi nhân “sầu”:
“Mưa xuân Hồng Lạc tươi màu,
Bức tranh mưa gió riêng sầu lòng ai…”
Cái sầu của ông là một cái sầu muôn đời vạn kiếp, nhưng màu sắc của cái sầu ấy rõ là một màu sắc hoàn toàn lãng mạn. Ấy là một cái sầu của nhà nho tàn cuộc, gặp nhiều thất bại éo le của những tầng lớp thị dân lưng chừng cầu an và bất lực dưới chế độ Tây thuộc tham tàn trước đây.
·        Mộng và mộng
Nguyễn Khắc Hiếu nói: “Mộng và mộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng lớn chỉ khác nhau vì dài ngắn lớn nhỏ mà thôi”. Đúng như vậy, đời ông là một giấc mộng lớn, trong giấc mộng lớn, ông lại có một giấc mộng con thứ hai rồi lại thứ ba,… ông mộng rồi ông lại mộng. Ông chỉ sống vì mộng mà thôi. Vì thế mỗi khi người ta đọc thơ của ông, người ta tưởng tượng ngay một nét mặt hàng giờ không thay đổi, trí “tiêu dao những chốn mộng ảo bất kinh”.
Khi ông mộng, ông được sống những cuộc đời đẹp đẽ, mới mẽ, tự ông vẽ ra theo trí tưởng tượng của ông. Chính trong cuộc đời ấy, TĐ tìm được “cái tự do trong sạch, cái độc lập thanh nhàng”, mà từ trước đến nay, cái óc lãng mạn của ông ao ước. Chính trong những khi ôn ngao du như vậy, ông mới có thể thấy được “cảnh bao la bát ngát” mà trí tưởng tượng ông khao khát nào là núi tuyết, rừng băng, nào sông Ngân Hà, nào bể Nam Định. Lại trong mộng ông mới có thể gặp được những người trong ý tưởng.
Tản Đà vẫn canh cánh bên lòng một giấc mơ đẹp về cõi thế người đời. Chẳng những nơi đây, mà suốt trong thơ TĐ, đâu cũng đều nói đến mộng. Tản Đà yêu mộng, ngây ngất trong mộng, chìm đắm trong mộng. Cho nên lời thơ tả mộng cũng là lwoif thơ tuyệt xướng của ông:
“Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời lắm nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu để ngán đời!
Những lúc canh gà ba cốc rượu,
Nào hay cánh diệp bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng,
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai?”
Nguyển Khắc Hiếu nói mộng là mộng, đời người cũng là mộng, mộng là cái mộng con, đời là cái mộng nhớn. Những giấc ngủ đương say, tâm hồn phảng phất như gần như xa, chợt thấy xuất hiện ra một cuộc đời hoặc vui hơn, hoặc sướng hơn, đẹp hơn, hay bi thảm hơn.Kỳ quái hơn với thân thế mình, mà trong cuộc đời ấy mọi việc lien tiếp nhau như thực, khiến mình nằm trong mộng mà không biết rằng là mộng, thế mới thực là mộng.

8.        Tư tưởng yêu nước trong thơ Tản Đà
Theo chủ đề yêu nước, TĐ có viết một số bài thơ ca tụng những anh hùng chống ngoại xăm trong lịch sử từ Trưng Trắc, Triệu Ẩn, Lê Lợi, Quang Trung,… cho đến những anh hùng chống Pháp như Đinh Công Tráng. Ông cũng viết hẳn một bài thơ về “tinh thần yêu nước của người An Nam ta từ xưa đến nay”. TĐ chia người yêu nước làm ba hạng: “Ái quốc bằng đạo đức”, “ái quốc bằng nhiệt thành” và “lấy khách khí ái quốc” . Tiêu chuẩn gọi yêu nước của TĐ là tấm lòng, là đạo đức chứ không phải là hành động, càng không “lấy sự quá khích làm quý”. Lòng yêu nước của TĐ trừu tượng, mộng ảo, thanh nghị nhưng lại có nét đặc sắc. Điều đó biểu hiện rất rõ trong một loại thơ mà ta tạm gọi là “Thơ non nước”. Gọi thế không phải vì hai chữ “nước non” được lập lại hiều lần, nhưng nó nói lên tư tưởng yêu nước của TĐ đầy đủ nhất.
Trong “Thơ nước non”, TĐ đã nhắc đến một lời thề nguyện:
“ Này vẫn bác Tản Đà năm trước,
Thuở xuân xanh thề nước non sông
… Non non nước nước chưa nguôi lời thề.”
Lời nguyện thề nhắc khá trang trọng. Người thề giữ lời hứa biểu hiện thành một hành động tượng trưng: ra Bắc vào nam, đi đâu TĐ cũng mang theo bên mình một bức địa đồ đất nước. Nhà thơ luôn nhắc nhở:

“Dư đồ còn đó chưa phai
Còn non còn nước, còn người nước non.”
Tản Đà là một thi sĩ đa tình, từ cái “sầu” không cùng, rồi đến cái “mộng” nay thì đến tình quê. Tình quê ở TĐ nồng nàn cả hương vị đất nước, nó bốc lên từ cảnh vật, từ con người mà nhà thơ mô tả.
Từ ngọn rau bí Thuận An, đến ngọn rau sắng chùa Hương, từ chén cà xứ Nghệ đến đội mắm Long Xuyên, từ anh hát xẩm đến chị làng chai, đều tỏa đượm những màu sắc tình ý thực đậm đà, quyến rũ trong văn thơ ông. Nhưng không có gì mơn man đẹp đẽ cho bằng cảnh quê nhà của thi sĩ:
“…Ta nhớ ai mà mãi đứng đây,
Nước rợn sông Đà con cá nhảy,
Mây trùm non Tản cái diều bay…”
Nỗi trìu mến gắn bó cùng đất nước quê hương này trong thơ ông thường vẫn nghe như những lời yêu thương tha thiết của một người tình quân cũ nhớ nhung.
Tình yêu của TĐ là một thứ tình hiền hòa, êm dịu, nhẹ nhàng, êm ả như đám mây trôi hờ hững trên nền trời xanh biếc của chốn đồng quê xa vắng:
“Sông thu ngược gió xuôi thuyền,
Thuyền xuôi gió ngược cho phiền lòng anh.
Đôi ta lên thác xuống ghềnh,
Trăm năm thề chữ chung tình sánh đôi”
Và khi nói đến cánh bèo mặt nước, nhà thơ đã từng viết những lời nùng diễm:
“Bềnh bồng mặt nước chân mây,
Đêm đêm sương tuyết, ngày ngày nắng mưa.
Ấy ai bến đợi sông chờ,
Tình kia sao khéo hững hờ với duyên!”
Thực không một mối tình nào đằm thắm và ngọt ngào, bồng bềnh thắm thía hơn nữa. Vả chăng, bản chất đa tình ở TĐ cũng đã phát sinh sớm, từ ngày ôn còn bé khi thích thú ngâm ngợi hai câu này trong Ấu học ngũ ngôn thi:


“Hoa cù hồng phấn nữ,
Tranh khan lục y lang”
Và trong Thề non nước, cái mối tình giữa non và nước mới thi vị làm sao!
“Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề”
Hình ảnh “non nước” trong bài thơ là một đất nước khô héo trong hồi ấy, vì không toàn vẹn, vì hồn nước đã ra đi, nhưng vẫn hy vọng, vẫn tin tưởng. Cái quý trong bài Thề non nước là TĐ thể hiện một cách vừa bóng gió, kín đáo, lại vừa rõ ràng, trực diện, nêu lên chủ đề đất nước, nhưng đồng thời nhà thơ biết tự mình vượt lên nỗi đau buồn lớn lao để hy vọng và làm cho người khác hy vọng. Vì phải có một sức mạnh tâm hồn như thế, phải yêu nước, tin ở ngày mai của đất nước, mới có được niềm hy vọng như vậy, lời nói thiết tha, thủy chung, tin tưởng về đất nước như tác giả Thề non nước.

9.        Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà
9.1.         Văn Phong

       Tản Đà đã để lại cho hậu thế khối lượng tác phẩm rất lớn (chủ yếu là thơ), nổi bật lên đó là sự phóng khoáng và ngông nghênh trong bút pháp của ông. Nhưng cái ngông nghênh ấy vẫn mang đậm màu sắc của dân tộc ( theo lối cổ phong, lục bát, hát nói v.v). Ở thơi kì đầu của thơ mới, thơ ông bị phản bác đã kích rất nhiều, chỉ có một nhà trí thức trẻ, phê bình mới mới nhìn nhận thơ ông là điểm sáng của văn học Việt.
       Có thể nói thơ là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà.Thơ ông diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng. Tản Đà đưa cái tôi cá nhân của mình trong thơ yêu nước, là sản phẩm của xã hội đang tư sản hóa. Nhưng cái tôi ấy lại đậm nét phương đông.  Được biết Tản Đà vốn đa tình, sâu sắc phải kể đến cô con gái ông phán tại Hà Nội, hay tình cảm cùng cô gái út tri phủ Vĩnh Tường, thiếu nữ Nam Định, cô đào Liên. Chính từ những mối tình đó đã tạo cho ông cảm hứng sáng tác. Điều này người đọc có thể cảm nhận khi đọc qua các minh chứng như Giấc mộng con, Khối tình con của ông.
“Ôi hồng nhan, hỡi hồng nhan!
Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời.
Trời Nam thằng kiết là tôi,
Chùa Tiên, đất khách, khóc người bên Ngô.
Cô với tôi, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây.
 Hồn cô ví có ở đây
Đưa nhau đi với, lên mây cũng đành.”
(Tế Chiêu Quân - Tản Đà văn tập).
      Một cách vô tình, từ những câu thơ trong gian đoạn buồn vì tình đầu của ông đã dẫn đến việc mở đầu phong trào thơ lãng mạn Việt Nam. Song song bên cạnh cũng có những bài thơ mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực. Như Xuân Diệu từng nói Tản Đà “ Mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại, dám có cá tính, dám có một cái tôi. Tản Đà hướng đến phong thi, hát nói, ca lý, thơ Đường. Một số nhà phê bình còn nhận định về sự mới mẻ trong thơ Tản Đà như cứu sinh cho nền thơ của Việt Nam thời bấy giờ:
Nhà phê bình văn học Lê Thanh cũng nói về những gì Tản Đà đưa đến cho văn học Việt Nam: “Ông Tản Đà là người thứ nhất và là người độc nhất của cái thế hệ ông đã làm sống lại cái hồn thơ Việt Nam đang hấp hối, tôi không muốn nói đến đã chết rồi. Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng; ông đã mơ mộng, đã chán đời, yêu đời, thiết tha với đời một cách tự do, ông đã dám ngông, dám có một bản ngã, dám công nhiên để cho cái chữ tình mê man của mình rãi trong văn thơ”.

9.2.         Ngôn từ
Đối với thơ Tản Đà nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, Trương Tửu đã đưa ra nhận xét: “Tôi gặp những cuộc ca vũ nhịp nhàng của âm điệu, tôi gặp những mãnh lực thần kì của chữ, những hội bay linh diệu của thần tượng. Tôi tưởng đang lạc vào thế giới của từ ngữ và hòa nhạc.” Thật vậy ngôn từ trong thơ Tản Đà là sự chắt lọc tinh tế vừa bình dị vừa da diết, ấy là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các từ ngữ, khẩu ngữ, nhịp điệu. Để biết rõ hơn chúng ta cùng đi tiềm hiểu các vấn đề sau:
·        Cách sử dụng khẩu ngữ
       Thơ Tản Đà không chỉ nằm ngoài bề mặt, mà trong đó là một tinh hoa với màu sắc, âm thanh của từng con chữ. Như một trò chơi chữ nghĩa, thơ ông không câu nệ, không theo khuôn khổ, các con chữ được tự do phóng khoáng, lời thơ trôi chảy tự nhiên. Nếu hô ngữ chỉ thường thấy trong sinh hoạt thì ở thơ ông hô ngữ, những từ cảm thán xuất hiện rất tự nhiên mà trước đó ít nhà thơ nào sử dụng.
       Trong Muốn làm thằng Cuội, Tản Đà đã mở đầu bài thơ bằng câu “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi”, một cách nhẹ nhàng nhưng lại như đánh vào lòng người, như gọi chị Hằng, như để cảm than, để bộc lộ nỗi buồn của chính lòng mình. Còn trong bài Cảm thu, tiễn thu từ “hỡi ai” được cảm thán lên một tâm sự lòng người:
“ Sắc đâu nhuộm úa quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường hỡi ai!”

 Trong bài thơ “Tâm sự nàng Mỵ Ê”:
“Ơi mây! Ơi nước! Ơi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi
Nước sông trong đục
Lệ thiếp đầy vơi
Bể bể dâu dâu khóc nỗi đời
Trời ơi! Nước hỡi! mây hời!
Nước chảy mây bay trời ở lại
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi.”
        Những từ ơi, hời được Tản Đà viết vào trang thơ mang nặng nỗi lòng, là tiếng kêu than, tiếng khóc thương,..vừa gần gũi, vừa nhẹ nhàng, vừa chua xót. Bên cạnh các từ gợi hình, gợi thanh nhà thơ còn sử dụng cách xưng hô rất đặc biệt. Có những câu thơ Tản Đà xưng “tớ” gần gũi như kể về chính cuộc đời mình.
“Người ta hơn tớ cái phong lưu
Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo”
(Sự nghèo)
Hay:
“Nhà tớ xưa nay vốn vẫn nghèo
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu”
(Lo văn ế)
·        Cách tân nhạc điệu, nhịp thơ
        Ngôn ngữ Việt với sáu thanh điệu đã được Tản Đà vận dụng linh hoạt trong thơ, ông như đệm vào đó nhạc điệu hình hài của các vũ điệu. Có âm bổng, có âm trầm, có âm nặng, có âm nhẹ,… mô phỏng lên những hình dáng, âm thanh từ đó gợi lên những cảm xúc khác nhau, tạo những trạng thái khác nhau. Đặc biệt đối với thi ca, Tiếng Việt đã tạo ra những giá trị nghệ thuật riêng. Tản Đà đã thừa kế, vận dụng khả năng gợi hình, gợi thanh này tạo nên những bài thơ thấm nhuần nhạc tính của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh đó ông sáng tạo những từ mà khi tách riêng có thể vô nghĩa nhưng đứng trong thơ lại tạo cho câu chữ thêm gợi tả.
“ Cô cất lưới lên bồng bỗng tếch,
Lấy chi nuôi nấng cái, con, chồng.”
(Xem cô chài đánh cá)
“bồng bỗng tếch” gợi lên cảm giác trống rỗng, không kéo được cá trong mẻ lưới. Bồng bỗng sẽ chẳng có nghĩa khi đứng một mình, qua câu chữ của nhà thơ ta nhận thấy nỗi buồn trong sự lo âu cho cuộc sống, gánh nặng mưu sinh đè nặng lên vai người phụ nữ.
        Trong bài Tống biệt thấy rõ được cái hiện hình của ngôn ngữ , cùng cách phối vần tạo nên ngữ điệu cho giọng thơ. Đôi khi chỉ một chữ ẩn trong cái thần cả bài. Nhà thơ đã dùng chữ tạo nên hình tượng, nhạc điệu :
“Cái hạc bay lên vút tận trời,
Trời đất từ nay xa cách mãi
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi…”
“vút” với âm sắc mạnh như thể hiện sự xa cách, biệt li, chóng vánh. Bay vút cho thấy một khoảng cách xa cao và nhanh chóng. Cũng như cách nhà thơ ngắt nhịp thành ba câu thơ ngắn với chỉ hai từ, sự phối hợp từ âm điệu đến tiết tấu diễn tả từng bước chân ngập ngừng đầy quyến luyến trong một buổi chia xa. Hay ở từ “trăng chơi” thể hiện sự vô định chơi vơi lơ lửng  giữa không trung, không xác định được đích đến đích đi.
        Là một thi sĩ lãng mạn với tâm hồn đa cảm Tản Đà đã đặt hồn mình vào những câu thơ. Cách sử dụng ngôn từ tự nhiên mà chính xác viết lên cái thần của câu thơ, tài năng sáng tạo đã để câu từ được tự nhiên, sống động trôi theo cảm xúc, không o ép vào những ràng buộc khắt khe về hình thức. Ngôn từ trong thơ Tản Đà được tự do vẫy vùng trong thế giới thơ của ông.
9.3.         Thể loại
Thơ ca là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà và là bộ phận được khảo sát cặn kẽ nhất trong tổng thể di sản văn chương của ông.
 Tản Đà dụng bút trên hầu khắp các thể loại của văn học giao thời: đặc biệt là thơ với không ít một chục tiểu loại, từ Đường luật, từ khúc ...cho đến lục bát, hát nói... và cả những bài thơ không định thể...
Thơ ông hay diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực.
Về đại thể có thể nhận diện hệ thống thể loại thơ trong sáng tác của Tản Đà theo bảng thống kê sau:
                                                          Đường luật:            98 (bài)         - tỷ lệ: 33%
                                                                        Trường thiên:         19 (bài)         - tỷ lệ: 7,1%
                                                                        Từ khúc:                  6 (bài)          - tỷ lệ: 2,2%
                                                                        Hát nói:                    17 (bài)        - tỷ lệ: 6,3%
                                                                        Lục bát:                    35 (bài)        - tỷ lệ: 13%
                                                                        Song thất lục bát:     19 (bài)        - tỷ lệ: 7,1%
                                                                        Phong dao:               52 bài           - tỷ lệ 19,3%
                                                                        Ca khúc:                   14 bài           - tỷ lệ: 5,2%
                                                                        Thơ không định thể: 9 bài             - tỷ lệ: 3,3%
                             (số liệu dựa trên Tản Đà vận văn - nxb Hương Sơn, 1945)

10.   Chất ca dao trong thơ Tản Đà
10.1.    Chất trữ tình trong thơ Tản Đà
  Thái độ trước xã hội

Thơ Tản Đà có cách nhìn nhận và đánh giá dưới góc nhìn của ca dao. Ca dao thường chú trọng phản ánh thái độ, cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với xã hội lúc bấy giờ. Nó phê phán lối sống coi trọng đồng tiền hơn những giá trị tinh thần khác, phơi bày hiện tượng con người có sự phân biệt trong đối xử giữa các tầng lớp xã hội: quan lại-thư sinh, người giàu-kẻ nghèo.
Bốn câu thơ trong một bài “Phong dao” của Tản Đà:
Ai xui em lấy học trò
Thấy nghiên thấy bút những lo mà gầy
Sao bằng đi lấy ông Tây
Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu
đã lấy ý từ câu ca dao:
Ai ơi chớ lấy học trò
Dài lưng, tốn dải ăn no lại nằm.
Tuy nhiên, ca dao chỉ phê phán thói lười biếng nói chung của những cô, cậu học trò. Trong khi đó thơ Tản Đà lại khái quát nó lên thành một vấn đề đáng chú ý trong thời buổi của mình. Nó cho thấy sự khập khiễng trong việc đánh giá con người của xã hội. Họ xem thường những người có học, tầng lớp tri thức. Vì cho rằng kẻ sĩ thường là những người nghèo, đến bản thân mình còn không thể tự nuôi nổi. Còn những “ông Tây” hay những kẻ trọc phúc tuy không có chữ nghĩa trong tay nhưng lại có thể sống sung túc và lo lắng cho người khác có được một cuộc sống đầy đủ. Những vần thơ cho thấy bản chất kim tiền của con người xã hội thời ấy.
Trước một thực trạng xã hội như vậy, Tản Đà luôn mang trong mình một thái độ chán ghét, muốn thoát ly:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung Quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
(Muốn làm thằng cuội)
Bài thơ mượn hình ảnh quen thuộc trong ca dao dân gian – chị Hằng:
Chiều chiều dạo mát dưới trăng
Trông lên chỉ thấy chị Hằng ở trong
Nói đến chị Hằng là nói đến cõi tiên, những điều ảo mộng. Vay mượn hình ảnh này trong văn học bình dân, tác giả cho thấy ước muốn, khát khao được thoát tục, được ra lìa chốn phàm trần để tìm đến nơi an lạc.
Quan niệm về nhân nghĩa, nhân sinh trong đối xử ở đời cũng xuất hiện trong thơ Tản Đà:
Sinh ra trong cõi hồng trần
Là người, phải lấy chữ Nhân làm đầu
(Ca dao Việt Nam)
Nếu người bình dân cho rằng, “Nhân” là một trong những đức tính quan trọng của đạo làm người thì quan niệm của Tản Đà cũng không khác như vậy:
Trời rằng: “Không phải Trời đày
Trời định sai con việc này
Là việc “Thiên lương” của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay
(Hầu Trời)
Thiên lương là bản chất tốt đẹp của con người, bao gồm: lương tri, lương tâm và lương năng. Thuyết giảng thiên lương là sứ mệnh cao cả mà Tản Đà được giao phó để giúp đỡ nhân loại.
          Qua bài “Hầu trời”, tác giả đã mượn việc lên trời, đọc thơ cho Trời nghe để truyền tải tư tưởng đạo đức mà ông được kế thừa từ cao dao. Theo ông, con người sống cần tu bổ ba đức tính trí-đức-tài, không nên sống làm người vô ích và vô cảm giữa cuộc đời.
Như vậy, Tản Đà đã mượn những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, đời thường trong ca dao cũng như tư tưởng và cách diễn đạt của người bình dân để làm chất liệu cho những sáng tác của mình. Thái độ của ông trước xã hội đương thời là một thái độ vừa phê phán, lên án vừa bày tỏ sự chán ghét thói đòi đen bạc, đồng thời cũng vừa răn dạy. Nhưng tất cả đều được thể hiện một cách rất bình dị, rất ca dao.
·        Tình yêu quê hương, đất nước
          Ca dao đã cùng nhân dân ta đi suốt chặng đường lịch sử chống giặc giặc ngoại xâm của đất nước. Vì vậy ca dao luôn chứa đựng tình yêu nước nồng nàn và đấu tranh giai cấp, lên án chế độ phong kiến, quan lại:
Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
          Ca dao Việt Nam không chỉ thể hiện lòng yêu nước của mình một cách trực tiếp (lên án xã hội) mà còn thể hiện gián tiếp bằng cách ngợi ca quê hương, đất nước qua cảnh đẹp của thiên nhiên và con người. Vì đất nước và con người có mối quan hệ mật thiết với nhau nên ca dao dường như là những lời dân dã, mộc mạc, là lời bộc bạch tình cảm của nhân dân :
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
          Tình yêu nước của Tản Đà gần gũi và phản phất nét tương đồng với tình yêu quê hương, đất nước của nhân dân thể hiện trong các bài ca dao truyền thống. Tình yêu ấy gắn liền với lòng yêu cảnh đẹp, lòng yêu tình nhân, người tri âm, tri kỉ. Tình yêu quê hương, đất nước của Tản Đà được biểu hiện một cách kín đáo, nhẹ nhàng trong bài thơ “Thề non nước". “Thề non nước" là bài thơ nói lên sự thề hẹn, tình cảm yêu nhau của lứa đôi nhưng được Tản Đà khai thác một cách tinh tế, không chỉ tình yêu đôi lứa, ta còn thấy được tình yêu quê hương, đất nước qua hình ảnh “non- nước” :
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời “nguyện ước thề non”
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
          Trong bài thơ hình ảnh “nước- non” xuất hiện tần số cao đến 27 lần, được lập đi lập lại tạo sự ám ảnh cho người đọc. Là lời thề rất sâu nặng, đem cả trái tim để nguyện thề. “Nguyện nước thề non” là một thành ngữ gốc Hán việt (núi là anh chàng và nước là cô nàng) đã thề thì rất sâu nặng với nhau, vậy mà cô nàng đi, đi hoài không chịu về. Chi tiết đó cũng giống như trong ca dao ta có hình ảnh cô nàng chờ đợi anh chàng đi trận trở về:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất trông sông sông dài
          Hai câu thơ tiếp theo trong bài thơ "Thề non nước " của Tản Đà cũng đậm chất ca dao gần gũi với hình ảnh người ra đi và kẻ ở lại :
Non cao những ngóng cùng trông.
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
          Sự chờ đợi, ngóng trông như đã cản trở sự sống đang có trong giây phút hiện tại. Có thể nói, cuộc đời bị đánh cắp bởi những chuỗi dài đợi chờ và ca dao ta có câu:
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng?
          Việc mang những âm hưởng ca dao vào bài  “Thề non nước“  là một cách mà Tản Đà dùng để khẳng định tình cảm dành cho quê hương, đất nước của dân tộc là thứ tình cảm bền chặt, thủy chung không hề thay đổi. Dù là con người của quá khứ, hiện tại hay của tương lai thì tình yêu ấy vẫn sẽ chỉ có một.
·        Tình cảm lứa đôi
Tình yêu đôi lứa là đề tài phổ biến và dễ mang lại hiệu quả cảm xúc trong thơ ca. Tình yêu khi được bày tỏ bằng những câu thơ nhịp nhàng, vần điệu sẽ trở nên uyển chuyển và dễ đi vào lòng người. Thế nhưng không phải vì vậy mà tình yêu trong thơ ca đánh mất cá tính và sự đa dạng riêng của mình. Mỗi bài thơ tình được nhà thơ thể hiện theo cách riêng và đối với Tản Đà thì tình yêu trong thơ ông mang tính chân thật, giản dị nhưng vô cùng da diết. Đó cũng chính là tình yêu mà ta có thể bắt gặp, cảm nhận được qua những bài ca dao của dân tộc.
Khi nói về tình yêu, dù là ở thời đại nào thì sự nhớ nhung, tương tư của đôi lứa đang yêu cũng là chủ đề được khai thác nhiều nhất. Có rất nhiều cách thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu. Đối với Tản Đà ông chọn cách bày tỏ trực tiếp:
Quái lạ ! Làm sao cứ nhớ nhau
Nhớ nhau đằng đẵng suốt đêm thâu
Bốn phương mây nước, người đôi ngã
Hai chữ tương tư, một gánh sầu .
(Tương Tư)

Cách bộc bạch của Tản Đà thẳng thắn mà không sỗ sàng. Nỗi tương tư được Tản Đà giải bày như cách mà nhân dân lao động giải bày trong hai câu ca dao:
Một thương hai nhớ ba sầu
Cơm ăn chẳng được ăn trầu cầm hơi.
Hay
Vắng cơm ba bữa còn no
Vắng em một bữa dở giò không lên.

Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ trong thơ Tản Đà lại được cảm nhận thông qua hành động, qua sự vật xung quanh chứ không được bày tỏ trực tiếp:
Nhớ ai chuyện thú trò cười
Nhớ ai reo, khóc, cười, tươi, bấy chầy
……
Nhớ ai cửa gác cánh rèm
Nhớ ai gió thổi giăng thèm xa khơi
…...
Nhớ ai chén rượu vần thơ
Nhớ ai gió lạnh giăng mờ năm canh
……
                                  (Nhớ ai)
Những câu thơ trong bài thơ “Nhớ ai” có nét tương đồng với câu ca dao sau:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Từ đó cho ta thấy nỗi tương tư, nhớ nhung được Tản Đà thể hiện trong các sáng tác thơ của mình có sự kế thừa và ảnh hưởng bởi ca dao truyền thống.
Không chỉ tình yêu và nỗi nhớ , trong thơ Tản Đà ta còn bắt gặp những dòng thơ ca thán cho thân phận phụ nữ, đặc biệt là người phụ nữ trong tình yêu, hôn nhân. Cảm thương thân phận người phụ nữ không phải là đề tài mới trong văn học Trung Đại. Đó là đề tài được nhắc đến nhiều trong văn học từ xưa đến nay và cả trong văn học dân gian (ca dao). Nhưng Tản Đà đã khéo léo chọn lựa những hình ảnh tượng trưng nhất về người phụ nữ trong ca dao để làm chất liệu cho thơ của mình như người phụ nữ “con thơ tay ẵm tay bồng” trong bài “Nhời con gái ngồi buồn nghĩ buồn”:
……
Con mang, con bế, lại con bồng
Thời không biết tại sao mà thế thế
Chị em ba bẩy kẻ
Nghĩ đi nghĩ lại mãi không xong
Hay nhà thơ còn tiếc thương cho phận người con gái lấy chồng không xứng với mình trong bài “ Cô tây đen”:
Nước trong xanh, lơ lửng con cá vàng;
cây ngô cành bích, con chim phụng hoàng nó đậu cao.
Anh tiếc cho cô em nay là phận má đào;
tham đồng bạc trắng mới gán vào ông tây đen.
Sợi tơ hồng ai khéo xe duyên;
treo tranh tố nữ đứng bên anh tượng đồng.
Chị em ơi, ba bảy đường chồng.
Tản Đà không chỉ cảm thán cho người phụ nữ như trong bài ca dao:

Nước đường mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài.
Tiếc thay con người da trắng tóc dài
Bác mẹ gả bán cho người đần ngu.
Rồng vàng tắm nước ao tù
Người khôn ở với người ngu nặng mình.

Vượt lên nỗi ca thán, Tản Đà còn đề ra lời khuyên giải cho người phụ nữ, đừng chấn nhận hôn nhân chỉ vì tiền bạc bởi “ Chị em ơi, ba bảy đường chồng”.
Việc Tản Đà mượn ý tứ, chất liệu trong ca dao tình yêu để chuyển tải vào trong những bài thơ tình của mình tạo cho người đọc cảm giác thân quen và gần gũi. Thế nhưng ta vẫn thấy trong những bài thơ tình yêu của Tản Đà xuất hiện cá tính, quan niệm về tình yêu của cá nhân ông. Điều đó giúp thơ Tản Đà có được giá trị, nét đặc sắc riêng mặc dù dựa trên việc mượn lại chất liệu ca dao.
10.2.    Tính dân tộc trong ngôn ngữ thơ Tản Đà
Nghệ thuật thi ca Tản Đà mang đậm phong vị dân tộc mà nỗi bật là tính trữ tình. Phong cách trữ tình đó được thể hiện rõ rệt và tập trung trong phần “Phong thi” của Tản Đà-những câu thơ thấm đậm màu sắc dân tộc rất khó phân biệt với những câu ca dao, dân ca nằm trong kho tàng văn học văn học bình dân. Trong thơ Tản Đà ta thấy tâm hồn nhà thơ rung lên với nổi niềm dân tộc:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi, không về cùng non
Nhớ lời nguyện ước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng không.
(Thề non nước)
Không phải trong khi sáng tác Tản Đà mới có xúc động mãnh liệt như thế, ngay trong lúc dịch thơ Đường, với sự rung cảm chân thành đối với nguyên tác,  kết hợp với phương pháp sử dụng ngôn ngữ dân tộc một cách tài tình điêu luyện, Tản Đà cũng khiến thơ dịch của ông thấm nhuần phong vị trữ tình:
Châu Giang mà ngóng châu Thông
Chân trời cuối đất mênh mông thấy nào.
(Dịch Vi chi kí của Bạch Cư Dị)
Để thấy được tài năng trác tuyệt của Tản Đà trong khi chuyển một giá trị nghệ thuật nước ngoài thành một giá trị nghệ thuật của dân tộc, chúng ta phải kể tới trường hợp dịch bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu. Đây là một tác phẩm trác tuyệt trong kho tàng thi ca của Trung Quốc và để dịch một tác phẩm như thế thì không hề dễ dàng. Có khá nhiều bản dịch cho bài thơ này nhưng có lẽ bài dịch của Tản Đà là thành công nhất. Ông đã bám sát từng ý, thậm chí từng chữ trong nguyên tác mà vẫn có thể nương vào thanh điệu êm đềm của thể lục bát dân tộc để làm bật lên tư tưởng của tác phẩm:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán dương bãi tạnh cây bày
Bãi xa Anh vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên song khói song cho buồn lòng ai.
Hầu hết những bài dịch thơ khác của Tản Đà đều thấm nhuần phong vị dân tộc một cách đậm đà như vậy. Đặc biệt trong khi dịch Kinh Thi, Tản Đà đã dể dàng biến những câu phong thi cổ xưa của Trung Quốc thành những câu ca dao trữ tình êm ái hoàn toàn Việt Nam:
Vợ thưa: Gà đã gáy rồi
Chồng rằng: Còn hãy tối giời như đêm
Anh ơi giở dậy mà xem
Sao mai sáng rực còn đêm nổi gì.
Cũng như văn bình dân, bên cạnh tính chất trữ tình, thơ ca Tản Đà còn luôn ánh lên nụ cười trào phúng ý nhị:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Tiếng  cười ngông trở nên vang động, giòn giã. Nụ cười của Tàn Đà có khi phảng phất ngữ điệu Nguyễn Khuyến, có đôi khi lại phảng phất ngữ điệu của Hồ Xuân Hương. Tiếng cười của Tản Đà không dừng lại ở mức độ khôi hài, ý nhị, nhẹ nhàng mà đôi khi là tiếng cười phóng thích khá cay độc:
Ai xui em lấy học trò
Thấy nghiên cùng bút những lo mà gầy
Người ta đi lấy ông Tây
Có tiền có bạc cho thầy mẹ tiêu.
Ngoài phong cách trữ tình và trào phúng, ngôn ngữ thi ca Tản Đà còn tràn đầy tính hình tượng, nó vốn cũng là một đặc điểm thơ ca nhân dân.
Thơ ông tràn đầy những kỹ xảo mỹ từ pháp và thủ pháp tu từ. Đó là các phép dùng định ngữ, ẩn dụ, nhân cách hóa, phúng dụ, điệp ngữ, đảo ngữ…những biện pháp này cũng vô cùng quen thuộc trong thể loại dân ca dân tộc.
Trong những câu phong thi của Tản Đà, người ta nhìn thấy rất rõ thể “tỷ” và thể “hứng”.  “Tỷ” là so sánh các hiện tượng để làm bật ý nghĩa. “Hứng” là lối liên hệ có ngụ ý sâu xa. Cũng như trong ca dao, dân ca, thể “tỷ” và “hứng” có khi kết hợp làm một trong phong thi Tản Đà:
Ai làm cho khói lên trời
Cho mưa xuống đất,cho người biệt ly
Ai làm Nam, Bắc phân kỳ
Xót xa hang lệ đầm đìa tấm thương.
Bên cạnh hai phương pháp nghệ thuật nói trên, trong thơ Tản Đà còn luôn sử dụng những hình ảnh so sánh, diễn đạt những cảm nghĩ trừu tượng bằng những hình ảnh cụ thể, do đó ngôn ngữ thơ Tản Đà có tính chất bóng bẩy, tình cảm thể hiện tinh tế có tác dụng gợi lên được tinh thần của sự kiện đối tượng mà nhà thơ muốn diễn tả. Nói đến tình cảm không cứu vãn được Tản Đà đã sử dụng hình ảnh con diều đứt dây:
Gió thu thổi lạnh ao bèo
Tiếc công bác mẹ như diều đứt dây
Trong câu thơ cuối cùng của đoạn phong thi sau, Tản Đà đã hình tượng hóa tuổi già bằng hình ảnh quen thuộc nhưng gợi cảm và rất gần với lối hình tượng của ca dao:
Anh đi lẽo đẽo đường trường
Công danh chẳng thấy những thương cùng sầu
Lại đây ăn một miếng trầu
Kẻo mai tuyết nhuộm mái đầu huê râm.
Phương pháp so sánh và hình tượng hóa làm cho câu thơ có khi trở nên cứng cáp hàm súc nhưng dễ dàng gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn người đọc.
Trong văn học bình dân ta thấy những nghệ sĩ vô danh đã tận dụng khả năng gợi tả thần tình của sáu thanh tiếng Việt. Thấm nhuần nhạc tính của ngôn ngữ dân tộc Tản Đà cũng kế thừa truyền thống đó.
Với hai câu : “ Cách song bạch dạ vũ / Ba tiêu tiên hữu thanh” (Dạ vũ –Bạch Cư Dị), Tản Đà dịch là:
Cách song đêm biết mưa sa
Tiếng nghe lộp bộp chăng là tầu tiêu.
Sử dụng vận mẫu a và thanh huyền kéo dài làm ta liên tưởng đến âm điệu triền miên của cơn mưa đêm cùng với từ tượng thanh “lộp bộp” tương tự một tiếng vang nhỏ trong lúc hết sức yên tĩnh làm ta lắng sâu hơn trong cảm giác tĩnh tại,  yên bình.
Phong cách nghệ thuật của Tản Đà còn thể hiện ở mặt thể loại. Khoảng hơn một nữa thi ca của ông làm theo thể loại dân tộc: lục bác, song thất lục bác và những điệu dân ca. Ngay trong những bài đường luật, chúng ta cũng thấy sự nhẹ nhàng, trong sáng của ngữ điệu dân tộc không có tình trạng nặng nề của từ ngữ Hán-Việt và điển tích. Tản Đà tiếp thu và kế thừa đạc điểm nghệ thuật của văn học dân gian và văn học viết. Ông thuộc rất nhiều dân ca và từng sáng tác chèo. Trong thi ca của ông dày đặc những tư liệu ca dao, dân ca, tục ngữ.
Cơ sở xã hội và những điều kiện cá nhân đã khiến Tản Đà trở thành một nhà thơ dân tộc. Vận dụng những thủ pháp nghệ thuật một cách nhuần nhuyễn, độc đáo và sáng tạo Tản Đà đã mang đến cho thơ ca dân tộc những phong vị quen thuộc nhưng không kém phần mới mẻ. Ông xứng đáng là cây đại thụ của nền văn học nước nhà.

TP. Hồ Chí Minh ngày 05 tháng 01 năm 2014
--- Biên soạn Nguyễn Tuấn Dũng--- 






·        Tài liệu tham khảo
1)    Tản Đà ảo thuật gia về chữ nghĩa, âm giai và hình tượng- NXB Văn hóa thông tin/ Xuất bản 2013
2)    Tản Đà về tác gia và tác phẩm- NXB Giáo dục/ Xuất bản 2006
3)    Bài thuyết trình “Chất ca dao trong thơ Tản Đà”
4)    Bài thuyết trình “Những cách tân nghệ thuật trong thơ Tản Đà
5)    Phê bình văn học- Quá trình cách tân và những giới hạn trong sự nghiệp sáng tác văn xuôi của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
6)    Vanthoviet.com- Cái tôi độc đáo của Tản Đà trong bài Hầu Trời.

                                                                                                                                                           
Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

1 nhận xét: