TD- Cấu trúc nhân vật qua tác phẩm Chí Phèo- Nam Cao


>>> Bài viết được vân dụng Phương pháp phê bình Xã hội học

1. Nhân vật trung tâm trong tác phấm



     Trong tác phẩm Chí phèo- Nam Cao ta thấy có rất nhiều nhân vật được xây dựng như: Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, vợ Bá Kiến, bà cô của Thị Nở,… Nhưng nhân vật trung tâm, “vai chính” đậm nét ở đây là Chí Phèo. Tác phẩm Chí Phèo được đổi tên 3 lần, ban đầu tác phẩm có tên Cái lò gạch cũ, với tên gọi đầu tiên này đã nói lên hoàn cảnh ra đời của Chí Phèo. "Cái lò gạch cũ" là hình ảnh mở đầu và kết thúc tác phẩm, nó là chi tiết không thể thiếu và gắng liền với số mệnh của Chí Phèo. Với tên gọi này thì giá trị hiện thực của tác phẩm thêm sâu sắc và sinh động. Tác phẩm được đổi tên lần hai sau khi được in thành sách (1941), nhà xuất bản tự đổi tên tác phẩm với nhan đề Đôi lứa xứng đôi. Với tên gọi này, sẽ hướng người đọc tới mối tình giữa Thi Nở và Chí Phèo, dẫn người đọc thấy ra sự tàn ác của làng Vũ Đại và Bá Kiến đối với Chí Phèo và nêu cao sự gặp gỡ của Chí Phèo với Thị Nở đã làm thay đổi vận mệnh cuộc đời Chí. Nhưng tên gọi này vẫn không đủ nói lên giá trị hiện thực và làm lu mờ đi nhiều giá trị quan trọng khác trong tác phẩm.
Và sau cùng nhà văn Nam Cao đã quyết định đổi tên thành Chí Phèo, lấy tên gọi nhân vật chính của câu chuyện. Với nhan đề này thì mọi giá trị của tác phẩm đều hiện hữu, bởi tựa đề đã đề cập tới một thân phận cụ thể, số phận ấy mang cả giá trị hiện thực lẫn giá trị nhân đạo.




     Xung quanh tác phẩm Chí Phèo với bao là nhân vật, có thể nói những nhân vật được xem là khơi nguồn, làm nên “chuyện”, rồi tạo sự kịch tính, sự xung đột trong tác phẩm được đẩy lên cao trào như: Bá Kiến hay vợ Bá Kiến. Hoặc nhân vật được nhắc đến chỉ sau Chí Phèo đó là Thị Nở, Thị Nở được nhắc đến trong tác phẩm như “đồng hình”, “đồng dạng” với Chí Phèo và là nhân vật quan trọng, điểm nhấn trong tác phẩm, chính Thị Nở đã đẩy cuộc đời Chí một ngã rẽ khác, một kết cục khác… Thị Nở xứng đáng là nhân vật tiêu biểu. Thế nhưng, tất cả chi tiết trên, những nhân vật đó không thể che lấp hay thay vị trí hình ảnh Chí, rất riêng của Chí Phèo trong tác phẩm. Nhân vật Chí là nhân vật trung tâm, là “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại và cũng thật táo bạo khi cho Chí Phèo là “một thiên thần” trong vô số các nhân vật trong tác phẩm. Nhân vật Chí không thể là điểm nhấn, cũng không phải chi phối tác phẩm,… nhưng là quyết định của tác phẩm, có Chí Phèo, có cuộc đời của Chí thì mới có tác phẩm. Vì thế không có sự bất ngờ khi Nam Cao chọn lấy tên nhân vật làm nhan đề cho tác phẩm của mình Chí Phèo và nhân vật trung tâm là Chí.




2. Bối cảnh xã hội




     Tác phẩm đã đem lại cho người đọc một hiện thực mạnh mẽ, một bức tranh đen tối, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước cách mạng Tháng Tám. Xã hội giai đoạn 1930- 1945 rối ren, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ dưới ách thống trị thực dân phong kiến và sự mâu thẫn giữa các giai cấp. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai câp vô sản và địa chủ phong kiến. Trong tác phẩm Chí phèo, Nam Cao đã khám phá một hiện thực riêng biệt của mình, không chỉ phê phán xã hội thực dân phong kiến, thế lực thống trị xã hội , yêu thương cảm thông cho những con người bị vùi dập, chà đạp trong xã hội mà còn suy ngẫm hiện thực của một con người, khi không còn là chính mình, không còn xã hội thừa nhận là con người thông qua bối cảnh xã hội như thế. Cái xã hội đức trị và trọng danh phẩm đã không có xuất hiện trong làng Vũ Đại trong tác phẩm Chí phèo của Nam Cao thay vào đó là tầng lớp thống trị quành hành và tầng lớp bị trị luôn bị tha hóa. Do vậy tôn ty, thứ bậc trong cái làng nôn thôn này đã không còn ,chữ lễ- nghĩa cũng mất huống chi là chữ nhân và chữ tình. “Xã hội làng Vũ Đại là một xã hội bị tha hóa toàn thể (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực, cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại). Làng Vũ Đại không nhiều các kiểu loại người, các thành phần và sự tiếp xúc, quan hệ giữa chúng không phong phú, vì vậy đời sống tinh thần, đời sồng tâm hồn của các cá nhân ở đây cũng đơn giản, nghèo nàn”. (Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại- Thái Nguyên 1991)




3. Tác động xã hội đến từng nhân vật trong tác phẩm
   3.1 Nhân vật Chí Phèo




     Trong tác phẩm, có thể nói nhân vật bị hệ lụy và ảnh hưởng nặng nề nhất của xã hội bấy giờ chính là Chí Phèo“cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Là nhân vật trung tâm, Chí Phèo như bị tha hóa, do thúc bách của xã hội và là nạn nhân của chế độ cường quyền từ một nông dân chân chất trở thành con “quỷ dữ” khiến mọi người khiếp sợ và tránh xa “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người”. Như là một nhân chứng sống động tố cáo thực dân phong kiến đã cướp mất đi quyền làm người, quyền được hạnh phúc trong xã hội bấy giờ. Bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ “hình như…” cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác của Chí. 




   3.2 Nhân vật Bá Kiến và vợ Bá Kiến




     Khi ta nói xã hội đương thời này đã thúc đẩy, dẫn đến Chí Phèo rơi vào cảnh bi kịch thì không quên đến nhân vật được cho là đại diện của thế lực cường quyền đó là Bá kiến và vợ Bá Kiến. Được xem là bộ mặt của xã hội thực dân phong kiến, Bá Kiến xứng đáng được gọi là nhân vật điển hình cho những bất cập, tồn tại có trong xã hội thực dâng phong kiến. Xấu xa, gian manh, đê hèn, bóc lột, tàn bạo,… những phẩm chất đó được Bá Kiến thể hiện trọn vẹn qua suy nghĩ, hành động, lối sống của mình qua tác phẩm. Sự gian manh nham hiểm của Bá Kiến được thể hiện qua cách dùng người như là một công cụ “không có những thằng đầu bò thì lấy ai để trị những thằng đầu bò?” hay sự ném đá giấu tay, lọc lừa một cách xảo quyệt “hay ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn ghế, đòi cho được năm đồng nhưng được rồi thì vất trả năm hào”. Vợ Bá Kiến thì luôn hiện thân cho tầng lớp thống trị, luôn đàn áp và cướp đi quyền tự do của người khác. Vậy nhân vật Bá Kiến và vợ là hiện thân cho xã hội thực dân phong kiến hay chính xã hội đó tạo nên con người thâm độc như vợ chồng nhà Bá trở thành bộ máy càng quét dân nghèo như thế…? Chỉ biết Bá Kiến và vợ hội tụ đủ tất cả tinh thần của chế độ cũ đương thời. 




   3.3 Nhân vật Thị Nở




     Nhắc đến nhân vật Chí Phèo ta không quên một nhân vật nổi trội, mà ai cũng quan tâm và có cái nhìn đầy thương cảm không ai khác chính là nhân vật Thị Nở. Thị Nở được Nam Cao nhắc đến như một “hiện tượng lạ” của làng Vũ Đại vậy! Dung nhan của Thị là những đường nét tự nhiên, thô mộc đến mức dị hợm: trên một khuôn mặt ngắn ngủn, có cái mũi “vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành” và một đôi môi “cũng cố to cho không thua cái mũi” hơn nữa, lại dày và có “màu thịt trâu xám ngoách”. Toàn bộ “nhan sắc” của Thị Nở được Nam Cao tóm lại trong một nhận xét là “xấu đến ma chê quỷ hờn”. Ông sẵn sàng viết cho nhân vật này “người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nhưng ẩn sau vẻ xấu xí, khiến mọi người chê cười đó lại có tấm lòng bao dung, hiền hậu. Là người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo tần và có trái tim người mẹ độ lượng. Thị có đầy đủ phẩm chất của một người bình thườn: biết lo toan, thương hại, có phút “lườm”, “e lệ”. Thị Nở là nhân vật hiện thân cho sự khao khát hạnh phúc, hạnh phúc gia đình và có một tình yêu đích thực. 




   3.4 Nhân vật bà cô Thị Nở




     Bên cạnh nhân vật Chí Phèo, Thị Nở và Bá Kiến thì còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm Chí Phèo. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét đó là nhân vật bà cô Thị Nở. Là một nhân vật phụ, ngay cả tên cũng không, nhưng bà cô Thị Nở là nhân vật điển hình cho người nông dân ở “làng Vũ Đại ngày ấy” nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn. Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Chính định kiến đó đã làm Chí và Thị Nở không đến được với nhau, nên duyên vợ chồng. 




4. Mối quan hệ giữa các nhân vật với nhân vật trung tâm
   4.1 Bá Kiến- Chí Phèo




     Đúng như vậy, mâu thuẫn được nảy sinh từ đây, Nam Cao đã trực tiếp để nỗi bi kịch cho Chí Phèo. Chí Phèo bị tha hóa và từ chối làm người cũng vì mối quan hệ “kẻ thù” với Bá Kiến. Trong tác phẩm cả ba lần Chí đến nhà Bá Kiến đều mang theo vũ khí để được ăn vạ và xin tiền uống rượu. Và cả ba lần thì đều thấy được sự lố bịch và dối trá của Bá Kiến, mâu thuẫn ngày càng cao và xung đột ngày càng ngay gắt. Chính Bá kiến là nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của Chí và làm cho Chí Phèo từ chối quyền làm người. Và dường như mâu thuẫn, xung đột này không cân sức, đỉnh điểm và cao trào hơn cả khi Chí Phèo giết Bá Kiến và Chí cũng tự xác. Nói cách khác Bá Kiến đã “sinh ra” một “con quỷ dữ” làng Vũ Đại và giết đi con một người, một người sắp làm cha như Chí Phèo. Bá Kiến- Chí Phèo đã chết thật chăng, hay chỉ là cái chết tạm thời…? đâu đó xã hội này còn đầy rẫy những sự bất công,… vì Bá kiến- Chí Phèo chính là mối quan hệ giữa những tầng lớp nông dân nghèo và bọn thống trị, thực dân phong kiến của xã hội đương thời.




   4.2 Thị Nở- Chí Phèo
      Mối quan hệ “thiên duyên tiền định” này đã làm thay đổi cuộc đời của Chí và Bá Kiến. Với Nam Cao, tình yêu không đi liền với sự lý tưởng, với sự hâm mộ sùng bái người yêu mà bắt đầu chỉ thuần tuý là bản năng. Nam Cao đã hợp nhất hài hòa tình yêu của họ giữa tinh thần và thể xác. Đây cũng là sự hồi sinh của tinh thần nhờ tình yêu và sự gắn kết hai “thân xác” tưởng như đã chết. Nó đã cải hóa, tái sinh Chí Phèo, tình yêu cho Chí Phèo và Thị Nở ý thức về chính mình. Tình yêu cũng làm tăng thêm “chiều dài” cho cuộc đời Chí. Trước đây Chí Phèo vô cảm, vô tâm, không có ý thức về chính bản thân nhưng nay Chí có cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Với những kỷ niệm yêu thương đầm ấm, mùi hương từ bát cháo hành và những săn sóc ân cần của Thị Nở, làm Chí cũng ngủi lòng. Chí Phèo cũng từng mơ tới cảnh bình yên với chồng cày thuê , vợ dệt vải… hắn còn sợ già, sợ cô độc và muốn làm hòa với mọi người, muốn làm người lương thiện. Tất cả là hệ quả của tình yêu đem lại, nó khắc họa một bức tranh toàn vẹn về cô độc của Chí Phèo và Thị Nở trước khi yêu và được yêu. Chính tình yêu đã bù đắp khiếm khuyết trong tâm hồn, tái sinh một cuộc đời và làm giàu có đời sống nội tâm của nhân vật Chí và Thị. 




   4.3 Bà cô Thị Nở- Chí Phèo




     Bà cô Thị Nở là nhân vật được nhà văn kể sau, nhưng vẫn quan trọng và gắng liền với định mệnh của Chí Phèo sau này. Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình, là đại diện cho định kiến xưa của mỗi gia đình, là tàn dư của chế độ phong kiến. Nhưng ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc phải xót xa, đáng thương hơn là đáng ghét. Nam Cao cũng đã viết “cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm…”. Chỉ có thế, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ. Chính định kiến của bà cô Thị Nở mà đã làm cho mối nhân duyên này không đến được với nhau. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí Phèo, có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình muốn ngăn cách họ. Làm sao bà cô Thị Nở có thể chấp nhận một đứa con hoang, không cha không mẹ, chuyên sống bằng rạch mặt ăn vạ như Chí Phèo hay có chăng xã hội ấy, làng Vũ Đại đó đang muốn ruồng bỏ một con người vốn đang sống, đang hiện diện giữa một cộng đồng người như thế. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Bà cô Thị Nở, hay nói khác đi chính định kiến xã hội đương thời đã làm thay đổi hành động của Chí, suy nghĩ của Chí, và cái chết của Chí nữa, một cái chết không cần gươm dao và vũ khí…




5. Tổng kết




     Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.



TP. Hồ Chí Minh ngày 08 tháng 10 năm 2013
---Nguyễn Tuấn Dũng---
Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét